KỶ
NIỆM 79 NĂM KHAI MINH ĐẠI-ĐẠO
Huệ
Tâm Phạm Long Thành
Kính thưa quư vị, hôm nay là
ngày 16 tháng 10 năm Quư Mùi, Đại Đạo năm
thứ 79, nhằm ngày 09 tháng 11, 2003, là một ngày
lịch sữ trọng đại đối với
người tín đồ Cao Đài.
Ngày lễ hôm nay đánh dấu một kỷ
nguyên lần thứ 79 của Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ, hay nói cách khác là ngày mà
Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế
dùng huyền cơ diệu bút giáng trần để
khai mối Đạo kỳ ba đại ân xá và ban
sắc lệnh cho các vị môn đồ đầu
tiên lập thành văn kiện khai Đạo.
Ngày lễ kỷ niệm khai Đạo ngày 15 tháng
10 âm lịch hằng năm chính là ngày tết
lớn của đàn chiên áo trắng nói riêng và toàn
thể quư vị nói chung.
Trong bầu không
khí vui tươi, hạnh phúc của ngày hội
lớn này, Tệ Đệ xin hiến thỉnh đến
quư vị chức sắc, chức việc, và toàn
thể bổn đạo bài thuyết tŕnh của
Tệ Đệ nhân dịp Kỷ Niệm Lễ Khai
Đạo. Với
tŕnh độ hạn hẹp và năng lực
yếu kém của Tệ Đệ chắc hẳn không
tránh khỏi những điều khiếm khuyết
nhầm lẫn, kính mong được toàn thể quư
vị niệm t́nh lượng thứ.
Kính thưa quư vị, sự chào
đời của Đại-Đạo Tam-Kỳ
Phổ-Độ không phải là một việc b́nh
thường hay âm thầm, lặng lẽ mà
chẳng một ai hay biết. Trái lại, đó là
Thiên ư - là ư Trời - và chính ư muốn này đă
được Ơn Trên tiên tri từ trước,
hoặc c̣n lâu hơn nữa ở nhiều nơi trên
thế giới. Sách
Vạn Diệu Thiên Thơ Cổ Bản có ghi:
Tam
Giáo kim tùng cổ hóa sanh.
Tiên
Thiên phương hữu thị tam thanh,
Phật,
Pháp, Nho hề quy nhất bổn,
Tam
kỳ hậu thế hiển phương danh.
Theo
đặc san của phái Minh Thiện trang 24 số
đặc biệt năm 1937 có đoạn trích
từ Kinh Thánh Đức, Đức Quan Thánh Đế
Quân xuống cơ dạy Đạo tại Đảo
Phú Quốc vào giờ Tư 15 tháng 08 năm Ất
Sửu 1925. Đức
Chí Tôn Thượng Đế lập Đạo Tá
Danh Cao Đài để lại cho muôn đời soi
rọi và truyền bá khắp vạn quốc.
"Chúng
sanh khá nhớ ‘Cao vi Càn, Càn vi Thiên, Đài
vi Khảm, Khảm vi Thủy, tức là quẻ Thiên
Thủy Tụng’. Đó
là do Trời định đoạt...:
Năm
Ất Sửu để lời lăo phán,
Sang
Bính Dần đặng rạng cơ mầu,
Lập
thành nguồn Đạo Á Châu,
Đắp
xây nền móng, sùng âu đời đời."
Hay
là,
"Trên
đường thiên lư dặm dài,
Lập
thành Đại Đạo Cao Đài độ dân."
(Trích
từ bài thuyết tŕnh của Nguyễn Hữu Nhơn,
"Nguồn Gốc Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ", ngày 23 tháng 08 năm Kỷ Măo)
Vào năm 1919, năm
Kỷ Mùi, khi thân mẫu Ngài Ngô bị bịnh
nặng, Ngài Ngô cùng ông Trần Phong Sắc thỉnh
ơn trên ban phương thuốc để chữa
trị cho mẹ. Trong
lúc cầu cơ có một vị Tiên Ông giáng
trần xưng là Cao Đài.
Trước sự ngơ ngác của mọi người,
ông Sắc cho rằng Cao Đài là Trung Thiên Đại
Mị. Ngược
lại, Ngài Ngô lại nói cách khác, "Cao Đài có
lẽ là một vị Tiên to lớn lắm".
Khi Ngài Ngô kẽ môi nói tiếp th́ Tiên Ông cho
hai câu thi:
Cao
Đài ứng hóa trong ḷng chúng sanh,
Đố
ai biết được cái danh Cao Đài.
Đó
là biệt danh Cao Đài vào thời điểm năm
Kỷ Mùi 1919 tại Tân An.
Sau khi mẹ Ngài Ngô quy vị, Ngài xin chuyển
công tác ra Hà Tiên. Vào
cuối năm 1919 tại đây, Ngài thường lên
Thạch Động ở núi Dương Đông
để cầu Tiên. Đầu
năm 1920 trong lúc cầu cơ có một vị Tiên
Cô xưng là Ngô Kim Liên cho bài thi sau dây:
Văng
vẳng nhạn kêu bạn giữa Thu,
Rằng
Trời cùng Đất vẫn xa mù,
Non
Tây ngoảnh lại đường gai gốc,
Gắng
chí cho thành bậc trượng phu,
Sau
khi nghe biệt danh Cao Đài lần thứ hai vào
tiết Trung Thu năm
Canh Thân 1920, Ngài Ngô cùng hai đồng Tử là ông
Đức và ông Sự lập đàn cơ tại
nhà ông Lâm Tấn Đức ở Hà Tiên.
Tiên Ông cho hai bài thơ sau đây:
Cao
Đài Minh Nguyệt Ngô Văn Chiêu,
Linh
lung vạn hộc thế quan Diêu,
Vô
thậm Sự Đức nhiệm giao du,
Bích
Thủy, Thanh Sơn, tương đối tiêu.
Cuộc hoát khai mối
Đạo Cao Đài đúng vào năm Giáp Tư 1924
bắt đầu thời kỳ truyền bá một
nền tân tôn giáo như câu "Thiên sanh ư Tư".
Sau đó, Ngài Ngô tuyên bố là kỷ nguyên Cao
Đài năm thứ nhứt và kể từ đó
Ngài tuyệt đối tuân theo huấn thị
của Đức Chí Tôn.
Kín
ngoài rồi lại kín trong,
Đường
xa phong cẩn thưởng ḷng để vui,
Công
đầu chịu cực đừng lui,
Thiên
Tào thăng thưởng Đạo mùi ngọt ngon,
(Trích
từ Lịch Sữ Ngô Văn Chiêu, 1962, tr. 34).
Cuối năm
Ất Sửu 1925 Đức Cao Đài mới dạy
Ngài đem mối Đạo kỳ ba ân xá phổ
truyền cho nhơn sanh, trước tiên là các
vị thiện trí thức và các quan chức
đương thời để có thế lực
bảo vệ cho cơ Đạo mai sau.
Đầu tiên, Ngài gặp cụ Vương
Quan Kỳ, một quan phủ trí thức.
Hai nhà tư tưởng lớn Chiêu và Kỳ
đồng cảm trao đổi với nhau thống
nhất ḷng tín ngưỡng, quyết định
lập bàn thờ Đức Cao Đài đầu tiên
của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
tại nhà cụ Vương Quan Kỳ.
Trong giai đoạn này, Ngài Ngô độ
dẫn được bốn ngài: Ông phủ Vương
Quan Kỳ, Ông Đoàn Văn Bản, Ông Phán Vơ Văn
Sang và Ông Phán Vơ Văn Hoài.
Trong lúc đầu
mới phôi thai thành lập Đại Đạo,
việc cầu cơ được tổ chức
rộng rải khắp nơi với nhiều thành
phần giai cấp trong xă hội tham gia.
Việc khai sáng mối Đạo Trời vào năm
Bính Dần 1926 gồm có ba ông: Cao Quỳnh Cư,
Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang.
Tiên Ông cho bài thi sau đây:
1.
Quằng vai thần Đạo non sông vác,
Chịu
kiếp trần ai gió bụi vùi.
2.
Thương hải tang điền xem lắm lúc,
Công
Danh, Phú Quí, nhắn tṛ chơi.
3.
Ở đời mới hẳn rằng đời
khó,
Khó
một đôi năm dễ khó đời.
Đến
ngày 30 tháng10 năm Ất Sửu, tức 15 tháng 12 năm
1926, Đức A Ă Â bảo ông Cư, Tắc, và
Sang rằng ngày mai mùng 01 tháng 11 phải lập bàn
thờ vọng Thiên cầu Đạo đúng vào
giờ Tư đêm Noel để Đức A Ă Â giáng
dạy. Đức A
Ă Â phán rằng: "Đêm nay phải vui
mừng v́ là ngày của ta xuống trần dạy
Đạo bên Thái Tây (Europe).
Ta rất vui ḷng mà đặng thấy đệ
tử kính mến ta như vậy.
Muôn
kiếp có Ta nắm chủ quyền.
Vui
ḷng tu niệm hưởng ân Thiên.
Đạo
mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn
tuổi muôn tên giữ trọn biên."
Đó
là những sự kiện trong giai đoạn từ
khi danh Đức A
Ă Â chuyển thành
hồng danh Cao Đài Thượng Đế.
Sau
khi Thất Nương tức là cô Quế tánh danh là
Vương Thị Lễ tiết lộ rằng Đức
A Ă Â là Ông Trời, ba ông Cư, Tắc, và Sang trách
Thất Nương sao không nói thật Đức A
Ă Â là Trời. Vào
ngày Tết Dương Lịch 01 tháng 01 năm 1926,
Thất Nương trả lời ba ông Cư,
Tắc và Sang rằng: "Ông Trời là Ông
Trời, c̣n em là em; em rơ biết nhưng không giám
lậu, nay ba anh đặng vậy em mừng."
Vào đêm Giao Thừa vào giờ Tư mùng một
Tết năm Bính Tư, tức là 13 tháng 02 năm 1926,
là ngày khai nguyên lập giáo xuống cơ phổ hóa.
Các tín đồ đầu tiên phải gánh vác
những trách nhiệm quá ư trọng đại và
nặng nề, "nhưng đặc biệt hơn
hết là của Ông Ngô Văn Chiêu là người
được chính Đức Thượng Đế
xây-dựng và chọn lựa để làm chủ
‘d́u-dắt cả môn đệ Ta mà dạy-dỗ
chúng nó’." Những
trách nhiệm trọng đại đó, nhất là
của Ông Chiêu, chưa từng thấy trong lịch
sữ nhân loại. "Có
phải: ‘Thiên nhứt nhựt, Địa nhứt
Chiêu’ chăng?" (T́m
Hiểu Đạo Cao Đài. Đỗ Vạn-Lư.
1989, tr. 111)
"Đạo
Cao Đài do Thượng Đế lập ra ở
trần thế này là một việc phi thường
nên cần phải có một người phàm phi thường
hướng dẩn." (T́m
Hiểu Đạo Cao Đài. Đỗ Vạn-Lư.
1989, tr. 111) Trước
kia Đức Thượng Đế khải thị
cho biết Thiên ư là lập Đạo tại
thế. Trong đàn
Giao Thừa Tết Tư thời mùng 01 tháng giêng Bính
Dần 1926, sau khi Thượng Đế cho cơ
Đạo lấy danh là Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ, số tín đồ
nhập môn cầu Đạo tăng vụt lên
một cách phi thường, làm cho ai ai cũng quá
ngạc nhiên. Những
tín đồ mới toàn là các đệ tử có
địa vị cao cấp và quan trọng trong chính
quyền thuộc địa, làm cho toàn bộ cơ
cấu trong chính quyền lo ngại không ít.
Trong số đệ tử lănh Đạo lúc
đó có những vị quyền cao chức lớn
như nghị viên, đốc phủ, tri phủ,
quận trưởng, hội đồng quản
hạt, công tư chức, thương gia, điền
chủ, giáo học v.v....
Họ là những người oai quyền,
phần nhiều đều am tường luật pháp
của chính quyền thuộc địa đối
với đại đa số toàn dân.
Đức Chí Tôn dạy Ngài Lê Văn Trung
rằng ngày mai 23 tháng 08 năm Bính Dần, tức 28
tháng 09 năm 1926, phải đích thân mang tờ Khai
Tịch Đạo nạp cho thống đốc Nam
Kỳ hồi đó là Thống
Soái Le Fol.
Một huyền diệu mà Đức Chí Tôn
đă cho biết trước là Thống Soái Le Fol
đă được Chí Tôn bố hóa, nên Thống
Soái Le Fol tiếp đón Ngài Lê Văn Trung bằng
một cách niềm nở và đầy đủ
nghi lễ. Thống
Soái Le Fol đă ghi nhận tờ Khai Tịch Đạo
vào sổ bộ.
Măi đến mười ba năm sau là năm
1939 chính phủ thuộc địa tại Pháp
mới chính thức công nhận nền tân tôn giáo này
và để cho sinh hoạt và hành đạo công
khai rầm rầm, rộ rộ ở miền Nam.
Vậy, nhân loại mới biết cái uy
lực huyền diệu của Thượng Đế.
Tờ Khai Tịch Đạo được kư
tên 28 vị tiền khai, và có hai trăm bốn mươi
bảy (247) tín đồ để hậu thuẩn
cho nền tân tôn giáo...
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát
Ma Ha Tát.
Trân
trọng kính chào phụng sự,
Lễ
Sanh Thượng Thành Thanh
(Huệ
Tâm Phạm Long Thành)
|