THƯỢNG
ĐẾ CÓ MÀU G̀ HỞ MẸ?
I.
Những đứa con:
Thượng
đế có màu ǵ hở mẹ
Phải
chăng Ngài da cũng trắng như con
Tóc
Ngài sáng như con vàng óng ả
Ở
trời Âu, một em bé hỏi dồn
Thượng
đế có màu ǵ hở mẹ
Phải
chăng Ngài da đen thẫm như con
Tóc
Ngài xoắn như con từng lọn nhỏ
Góc
trời Phi, một em bé hỏi dồn
Thượng
đế có màu ǵ hở mẹ
Phải
chăng Ngài da cũng đỏ như con
Ngài
đội măo bằng lông chim rực rỡ
Bộ
lạc kia, một em bé hỏi dồn
II.
Các bà mẹ:
Con
nh́n xem trên bao la muôn trượng
Rất
huy hoàng, rất biến ảo sắc màu
Riêng
Thượng đế mới tỏa màu đẹp
nhất
Màu
của Ngài, là màu của thương nhau
Sẽ
đến ngày con rời xa trái đất
Hồn
con bay t́m lối trở lại Ngài
Con
sẽ thấy giữa hư không bát ngát
Đang
chờ con, Thượng đế mở ṿng tay
Con
sẽ thấy chốn Thiên đường tôn kính
Không
có màu, không có sắc phân ly
Ai
đến đó cũng tương đồng nhất
thể
Tên
mà chi? Da với tóc mà chi?
Trước
Thượng đế, con không c̣n căn cước
Nhận
diện con, Ngài sẽ dơi t́m màu
Màu
đẹp nhất mà hồn con tỏa sáng
Màu
di truyền, là màu của thương nhau
(Mượn
ư bài thơ The Beautiful Color of Love
của Arnold Watts)
LÊ
ANH DŨNG
(Phú
Nhuận, 29-4-2003)
>>>
Suy ngẫm kỳ trước
|
KHÔNG
NÊN GIẢI ĐĂI TRÊN ĐƯỜNG TU
Đối với những ai đă
ngán ngẫm lẽ vô thường của thế gian này, muốn cầu đạo
giải thoát th́ phải hạ quyết tâm để dứt khoát những
nghiệp duyên kéo tŕ, không nên chờ hẹn v́ chẳng ai dám quyết
đoán mạng sống của ḿnh dài được bao lâu. Cổ thi có câu:
Ngày
trước đầu đường c̣n ruỗi ngựa,
Hôm
nay trong quách đă nằm yên.
hoặc câu:
Chờ
hẹn đến già rồi niệm phật,
Đồng
hoang mồ trẻ thấy đông người.
Trên đường tu, để ngăn
trách về sự giải đăi, đức Phật đă răn dạy: "Thầy
tỳ khưu thường hay có tám cách biếng trễ. Chẳng hạn bữa
nào đi khất thực đói, liền nghĩ rằng: "Hôm nay khất
thực đói, trong người tất thiếu sức khỏe, để huởn tu một
đêm." Bữa nào khất thực no, liền nghĩ: "Hôm nay ăn
no, trong người nặng nề mệt nhọc, thôi tạm xả tu, mai sẽ
tiếp tục." Như thế cho đến những khi: sắp làm việc
nhiều, lúc làm việc nặng vừa xong, sắp muốn đau, khi đau bịnh
vừa mạnh, sắp đi xa, lúc đi xa mới về; trong các trường hợp
ấy, lúc nào cũng nại cớ này, cớ khác, rồi bỏ tu để ngủ
nghĩ. Trái lại, những vị tỳ khưu tinh tấn, trong tám trường
hợp đó, luôn luôn nghĩ đến sự vô thường, hằng siêng năng
tu tập."
Tâm niệm giải đăi của
người xuất gia đă như thế, tất tâm lư biếng trễ của hàng
tại gia chắc có lẽ nhiều hơn. Hoằng Nhứt đại sư từng
khuyên một thân hữu lo tu cầu giải thoát. Ông bạn viết thư
gởi đến, than ḿnh mắc bận nhiều công việc, xin để tạm
xếp đặt cho ổn thỏa rồi sẽ hay. Đại sư liền biên vào
bức thư đó hai câu thi, rồi gởi trả lại. Hai câu ấy như
sau:
Ngay
giờ quyết dứt, liền thôi dứt,
Chờ
hẹn cho xong, chẳng lúc xong!
Thật thế, chuyện đời
đến khi nhắm mắt cũng không rồi công việc.
Khi xưa, có vị tăng khuyên
người bạn là Trương Tổ Lưu lo tu cầu giải thoát. Ông bạn
bảo: "Tôi có ba việc làm chưa xong: một là quan tài ông
thân c̣n để ở nhà mồ chưa chôn, hai là đứa con trai chưa
cưới vợ, ba là đứa con gái chưa gả chồng. Chờ ba việc
xong, tôi sẽ vâng lời."
Mấy tháng sau, ông bạn
bị bạo bịnh chết. Vị tăng đến tụng kinh cầu siêu và điếu
một bài thi rằng:
Bạn
tôi tên là Trương Tổ Lưu,
Khuyên
ông niệm phật, hẹn ba điều,
Ba
điều chưa vẹn, vô thường bắt,
Đáng
trách Diêm vương chẳng nể nhau!
Bài thi ư nói: ông bạn
hẹn khi xong ba việc sẽ lo tu, nhưng ngặt nỗi vô thường bất
ngờ đến, nó có hẹn cho ông biết trước ngày nào đâu? Thế
là rồi một kiếp, lại tiếp tục luân hồi!!!
Phải biết:
Nắm
cây huệ kiếm gươm thần,
Dứt
tan sự thế nợ trần từ đây...
|