Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
Giáo
sư Tiến sĩ Trần Văn Khê sinh ngày 24.7.1921,
tại làng Đông Ḥa, tổng Thuận B́nh, tỉnh
Mỹ Tho. Năm lên chín, ông và hai em (Trần Văn
Trạch, Trần Ngọc Sương) mồ côi mẹ; năm
sau lại mồ côi cha; được người cô
thứ ba là Trần Ngọc Viện đem về nuôi, cho
đi học lớp sơ đẳng (cours élémentaire)
ở Vĩnh Kim (Mỹ Tho). Ông thi đậu tiểu
học, được cô Ba Viện gởi qua Tam B́nh (Vĩnh
Long) ở với người cô thứ năm là Trần
Ngọc Cảnh. Dượng Năm ông là điền
chủ Nguyễn Văn Dương, tức Mười Ṭng,
bấy giờ là phối sư đạo Cao Đài. Do hoàn
cảnh đó, được sớm gần gũi,
hiểu nhiều về đạo Cao Đài, nên sau này, Giáo
sư Tiến sĩ Trần Văn Khê đă viết về
nhạc lễ Cao Đài, in trong bộ Bách
khoa từ điển âm nhạc tôn giáo thế giới. Sáng
thứ Sáu, ngày 11.10.1996, Giáo sư Trần Văn Khê nói
về nhạc truyền thống dân tộc Việt Nam và
nhạc lễ Cao Đài tại thánh thất Từ Vân
(số 100 Thích Quảng Đức, quận Phú Nhuận).
Giáo sư kể lại ít nhiều kỷ niệm không quên
trong thời hoa niên ở Tam B́nh với Dượng Năm
(Mười Ṭng) là chức sắc Cao Đài cũng như
với hai nhân vật Cao Đài khác là Nguyễn Văn
Ngợi (Ba Ngợi) và Trần Văn Quế (Huệ Lương).
Giáo sư kể: “(...)
Nhờ dượng tôi mà tôi biết tới đạo Cao
Đài từ năm mười tuổi. Năm đó, dượng
tôi có đọc cho tôi một bài thơ mà tới bây
giờ tôi c̣n nhớ. Có nhiều đoạn tôi không
hiểu mà tới bây giờ tôi mới hiểu. Dượng
tôi nói: Chà, có bài thơ này hay lắm con. Bài thơ này nói
chuyện về tương lai của đất nước
Việt Nam. Đọc lên nè: Cuộc cờ xe pháo lướt xông pha, Tách khỏi b́nh dương rơ chánh tà. Áo tả đứt bâu, quần mất ống, Cơng con dắt vợ lụy chan ḥa. Ĺa cha xa mẹ phân đôi ngă, Biệt tổ vong quê lạc cửa nhà. Cơi thảm mạt đời trời chẳng
nắng, Một cơn tận thế khó mưa sa. “(...)
Tôi cho
đó là cơ duyên thứ nhất cho tôi đến
với đạo Cao Đài. “Cơ
duyên thứ nh́. Tôi học trường Tam B́nh mà ông
Đốc học Nguyễn Văn Ngợi là thầy
của tôi hồi lớp Nhứt (cours supérieur) cũng
đạo Cao Đài. Tới nhà thầy chơi đờn
với thầy th́ cũng thấy đạo Cao Đài.
Rồi sau này tôi lên [Sài G̣n] học trường Petrus Kư
tôi gặp người thầy Việt văn là Trần Văn
Quế th́ thầy tôi cũng là người đạo Cao
Đài. “Cho
nên khi tôi được lời mời họp với ban
chấp bút để viết Bách
khoa từ điển âm nhạc tôn
giáo thế giới, người ta hỏi tôn giáo
nào từ đất nước Việt Nam sinh ra, hoặc
là có mặt ở đất nước Việt Nam từ
lâu; (...) th́ tôi nghĩ bây giờ trong đất nước
Việt Nam chẳng những có Phật giáo mà c̣n có Cao
Đài giáo. “Tôi
viết thơ cho thầy tôi là Trần Văn Quế, xin
thầy cho biết rơ coi trong đạo Cao Đài tổ
chức việc nhạc như thế nào. Một hôm
thầy tôi gởi cho tôi một bức thơ trong đó có
chép lại một bài cơ bút đă giáng xuống [quy]
định cho tất cả nhạc trong đạo Cao
Đài. Lần đó tôi mới giựt ḿnh thấy
tất cả nhạc trong đạo Cao Đài đều
do nhạc trong dân gian Việt Nam, trong truyền thống
Việt Nam đưa vào, không phải từ phương
xa đi tới, không phải từ một nước ngoài
đi tới. Chính từ trong dân gian Việt Nam mà
đưa ra. Th́ điều đó là cái duyên của tôi
đă đến với đạo Cao Đài trong ba
thời kỳ: (1) gặp Dượng Năm tôi; (2) gặp
Đốc học Nguyễn Văn Ngợi; (3) gặp Giáo sư
Trần Văn Quế. Nhờ ba người đó mà tôi
hiểu đạo Cao Đài để mà có thể
viết tóm tắt ra gần một chục trang góp mặt
với Bách khoa từ điển âm nhạc tôn giáo
thế giới. “Điều
làm cho tôi rất vui là [khi] có mặt ở trên đất
nước phương Tây, không bao giờ bỏ qua
một cơ hội để cho âm nhạc đạo giáo
Việt Nam được góp mặt với thế
giới, mặc dù trong điều kiện rất khó khăn,
[v́] lúc đó tôi chưa có dịp trở về đây
[Việt Nam], chưa có dịp gặp gỡ các chức
sắc Cao Đài để mà hỏi lại. Nhưng căn
cứ trên cơ bút giáng th́ tôi biết chắc căn
bản âm nhạc Cao Đài như thế nào. Tôi mới
hiểu tại sao có điệu ai, tại sao có điệu
oán, tại sao có điệu xuân (...). Tất cả các
điệu nhạc lễ đều có mặt trong nghi
lễ của đạo Cao Đài. Điều đó làm
cho tôi sáng tỏ được chẳng những là âm
nhạc trong đạo Cao Đài mà [c̣n là] âm nhạc
trong phong cách nhạc lễ miền Nam Việt Nam chứ không
phải miền Trung hay miền Bắc. Tức là âm
nhạc trong đạo Cao Đài dựa vào âm nhạc
truyền thống dân gian của miền Nam một cách rơ
ràng. “(...)
Tôi thấy trong âm nhạc dân gian ở miền Nam có
một câu hát ru của bà mẹ, là một bài giáo
dục âm nhạc đầu tiên rót vào tiềm thức
của đứa trẻ. Cùng một lúc với ḍng
sữa nóng của bà mẹ nuôi cho thân thể đứa
bé th́ một điệu nhạc dân gian, một bài thơ
dân gian đă rót vào trong bộ nhớ của trẻ em
để nó ghi lại trong đó làm nền tảng. “Lớn
lên một chút rồi, muốn sáng tác một bài ǵ,
muốn đưa ra một điệu nhạc nào th́ cái
cấu trúc của câu hát ru của bà mẹ hiện lên
để làm nền, để làm mẫu cho người
đó sáng tác, bởi v́ người đó không có
học nhạc viện, không có biết đô, rê, mi, pha,
xon là cái ǵ hết, chỉ biết cái lời hát ru
của bà mẹ. Th́ lời hát ru đó đă thể
hiện ngay trong bài Niệm hương của đạo
Cao Đài. “Bài hát ru của bà mẹ
Việt Nam là: Ầu
ơ... ơ... ví dầu... ầu... cầu ván ư... ư...
đóng đinh; cầu tre...ơ... lắc lẻo ơ...
gập gh́nh...ơ... khó đi... Cấu trúc là ḥ...
xự... xang... (xang già mà rung một chút)... xê... cống...
Th́
đó là thang âm mà tôi nghe thấy trong lời kinh Cao Đài:
Đạo...
gốc bởi... ḷng thành... tín hiệp... Ḷng... nương
nhang... khói tiếp... truyền ra... Mùi hương... lư
ngọc... bay xa... Kính thành... cầu nguyện... tiên gia...
chứng ḷng... ḥ... xự... xang... xê... cống...
“Tiếng
hát ru đó hiện ra trong kinh của Cao Đài, hiện ra
trong tiếng kinh của Phật giáo (...). Tôi mới
giựt ḿnh. Hai đạo giáo đó có trên đất nước
Việt Nam từ lâu, mà lời kinh tiếng kệ lại
phản ảnh được tiếng hát ru của bà
mẹ; từ trong ḷng của dân tộc Việt Nam mà sanh
đẻ ra những nét nhạc đó. Đó là một
bằng cớ chứng tỏ rằng hai đạo giáo
đó [Phật và Cao Đài] đă mật thiết liên
quan tới đời sống hằng ngày của dân
tộc Việt Nam. “Sau
đó tôi bắt đầu nghiên cứu thêm, mới có
được sự hiểu biết mỗi một
lần một chút. Do đó tôi mới thấy được
tại sao mà có những hơi xuân [nam xuân] trong khi đọc
bài Đại
la Thiên đế (...) Rồi
tất cả những bài kinh đồng nhi đọc như
thế nào, nhạc đánh như thế nào (...). Tất
cả làm thành một khối âm nhạc tôn giáo rất
phong phú, rất sâu sắc mà nếu không nói ra, người
trên thế giới họ không thể hiểu nổi chúng
ta. Mà khi nói ra, người ta hiểu rồi, th́ người
ta bắt đầu kính nể dân tộc Việt Nam có
một nền văn hóa rất vững chắc, bắt
nguồn bắt rễ từ ḍng nước âm nhạc
của Việt Nam, từ trên mảnh đất ph́ nhiêu
của truyền thống âm nhạc Việt Nam. “Điều
đó làm cho chúng tôi hết sức là vui mừng. Vui
mừng là may mắn Trời cho cơ duyên có cái dịp
đứng tại cái chỗ gọi là trung tâm văn hóa
của cả thế giới tại thành phố Paris, đứng
trong cái trường đại học có tên tuổi trên
thế giới là trường Sorbonne; lợi dụng hai cái
chỗ đứng của ḿnh, đem cái tiếng nói
của ḿnh để mà làm sáng tỏ được
nền âm nhạc truyền thống của dân tộc
Việt Nam. “Điều
đó tôi cho là Ơn Trên đă cho tôi một cái phước
mà được ở trong những cái địa điểm
đó, và sống trong cái thời điểm đó,
tức là lúc người ta bắt đầu t́m hiểu
âm nhạc châu Á. Được như thế là có
trời đất, được gặp gỡ thiên
thời, địa lợi, nhân ḥa mới làm được
những công chuyện đó... “Trong
quá tŕnh đó, không phải là có tài mà được,
không phải chuyên tâm mà được. Phải nhờ
Ơn Trên sắp đặt cho ḿnh có một vị trí
đó mới có thể đem cái tài, đem cái hiểu
biết, chỉ là cái đóng góp nhỏ nhen so với
cả một cái đức trời đất ban cho. Luôn
luôn tôi chắp tay hoa mà lạy tạ ơn trời
phật, để cho có một cái dịp mà nói được
tiếng nói của âm nhạc dân tộc Việt Nam. “Điều
đó tôi cho là hạnh ngộ của tôi đối
với âm nhạc, cái hạnh ngộ đối với
tất cả các đạo giáo, cái hạnh ngộ
của tôi đối với tất cả những người
làm văn hóa trên thế giới." Một
khía cạnh khác của nhạc lễ Cao Đài thể
hiện tính dân tộc, theo Giáo sư Trần Văn Khê, là
nhịp hai. Giáo sư giải thích: “Tại
sao Việt Nam ḿnh không có nhịp ba? Là bởi v́ yếu
tố của tiết tấu người Việt Nam ḿnh căn
cứ trong con người và môi trường sống
của dân tộc Việt Nam. Con người sanh ra th́ có hơi
thở, thở vào thở ra [nhịp hai]. Có trái tim đập
hai nhịp. Trái tim đập ba nhịp là đau rồi
(...). Cái tướng đi đánh đ̣ng xa, cũng hai
nhịp. Con người thể hiện ra nhịp hai.
Mẹ sanh ra đưa vào cái nôi, cái nôi kẽo cà kẽo
kẹt, đưa qua đưa lại, là nhịp hai. Cây
tre đầu làng phất phơ theo gió, là nhịp hai.
Thủy triều lên xuống, là nhịp hai. Con sông nước
lớn nước ṛng, là nhịp hai. [Vậy] th́ tất
cả con người và môi trường trong đó người
Việt Nam sống thể hiện ra nhịp hai rất
nhiều. Nên chúng ta có nhịp hai, nhịp bốn, nhịp
tám, nhịp mười sáu, nhịp ba mươi hai
[bội số của nhịp hai] mà không có nhịp ba. Ngay
cả nhịp ba-bảy của chèo (...), ba-bảy đó
thật ra cũng có một nhịp bỏ, không đếm.
Nhịp ba-bảy theo hát bội th́ tuy nói là ba khoảng mà
bốn nhịp, cho nên kêu nhịp ba - bảy mà thực ra
là bốn nhịp mà ba khoảng, đánh bảy tiếng.
Do đó, tôi thấy rằng xem xét tất cả, từ
trong nhịp hát chèo, từ trong nhịp hát bội, từ
trong đời sống con người, th́ nhịp ba không
có; nhịp ba chỉ có là khi nào ḿnh ra ngoài múa nhảy. Khi đọc kinh nhịp hai, nhịp bốn là
đúng theo phong cách người Việt Nam. Đọc theo
nhịp ba là bắt đầu chuyển sang có hơi hướng
ngoại lai, hoặc là theo điệu valse của bên ngoài
(...). “Nhạc
đệm cho kinh (đối với cách đọc kinh Cao
Đài theo nhịp hai, nhịp bốn) có thể dùng các bài
đàn như nam ai, nam xuân, nhịp hai bốn phách để
đệm vào đó hay không? Tôi xin trả lời, có
thể được.
Huống chi kinh Cao Đài không phải là một bài có nét
nhạc cố định, mà nét nhạc đó di động,
uyển chuyển theo điệu và hơi, giống như
trong hát bội hoặc hát khách không có một nét nhạc
nào nhứt định, hoặc hát nam không có cái hơi nào
nhứt định, tùy theo cái bổng trầm, cái thanh
giọng của thi ca Việt Nam mà ra. [Vậy] th́ tùy theo cái
thanh giọng bổng trầm trong câu kinh mà thể hiện
ra hơi [nam] ai hay là [nam] xuân đều có thể
được hết. Chữ không dấu th́ luôn luôn thành
xang; không dấu có thể thành liu; [chữ có] dấu
huyền có thể làm ḥ... Làm như thế th́ bất
cứ chỗ nào cũng được, cho nên đờn
nhịp hai, nhịp bốn cho vào đó luôn luôn có thể
ăn." · Sau
buổi nói chuyện, trong sổ lưu niệm của Thánh
thất Từ Vân, Giáo sư Trần Văn Khê viết:
“Ngày 11 tháng 10 dương lịch
năm 1996 là một ngày tôi sẽ ghi nhớ măi trong đời
cơ duyên hạnh ngộ với các chức sắc và
đạo hữu Cao Đài tại thánh thất Từ Vân,
đă đưa tôi về dĩ văng lúc tôi mới
được Dượng Năm tôi, Phối sư Thái Ṭng
Thanh, khai tâm để hiểu đôi điều về
đạo Cao Đài, nhớ lại thời kỳ tôi c̣n
là học sinh của Thầy Nguyễn Văn Ngợi và
Thầy Trần Văn Quế, cho tôi có dịp hội
ngộ với những người bạn chí thân của
tôi trong lĩnh vực âm nhạc và kịch nghệ: Anh
Nguyễn Vĩnh Bảo và Cô Bảy Phùng Há, để chúng
tôi cùng đem tiếng đàn, điệu hát minh họa
những lời giải thích về các hơi, các điệu
trong âm nhạc truyền thống Việt Nam để cho các
bạn yêu nhạc, các bạn trẻ của thế hệ
mai sau hiểu thêm nguồn gốc của các hơi dùng
trong cách đọc kinh Cao Đài, thấy rơ rằng
lễ nhạc dùng trong đạo Cao Đài rất đậm
màu dân tộc Việt Nam. “Bản
sắc dân tộc đó chúng ta phải giữ ǵn, không
phải v́ nệ cổ mà để cho nhạc, lễ Cao
Đài khỏi mất rễ xa nguồn và rơi vào
mảnh đất ngoại lai. “Cuộc
hạnh ngộ đó không phải chúng ta muốn mà
được. Tôi xin chắp tay hoa tạ Ơn Trên đă
cho tôi sống được những phút tuyệt vời
ngày 11 tháng 10 năm 1996 vừa qua. “Miền
Nam nước Việt, 15.10.96”
Qua
buổi nói chuyện ở thánh thất Từ Vân,
những ư kiến, nhận định của Giáo sư
Trần Văn Khê về tính dân tộc trong nhạc lễ
Cao Đài sẽ góp phần quan trọng cho việc nghiên
cứu sâu rộng về tính dân tộc của một
nền đạo bản địa Việt Nam. LÊ
ANH DŨNG |
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|