Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
LÊ
ANH DŨNG Ṭa
thánh Cao Đài Tây Ninh (thuộc Hội thánh Cao Đài Tây
Ninh) ở xă Long Thành Bắc, huyện Ḥa Thành, cách
thị xă Tây Ninh khoảng bốn, năm cây số về
hướng đông nam. Đây là một quần thể
gồm nhiều kiến trúc, công tŕnh xây dựng. Trong
đó kiến trúc trung tâm, quan trọng nhất chính là Đền
thánh, nơi trang trọng thiết lễ triều kính
đức Cao Đài Tiên ông Đại bồ tát Ma ha tát
(Ngọc Hoàng Thượng đế). Đây cũng là nơi
vào đầu xuân hằng năm,
mùng 9 tháng Giêng âm lịch,[1]
đại lễ Vía đức Chí tôn (Giáo chủ đạo
Cao Đài) trở thành một lễ hội thu hút đông
đảo tín đồ Cao Đài các nơi đổ
về hành hương, không phân biệt chi phái. I. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ KIẾN TẠO ĐỀN THÁNHSau
khi Tờ khai Đạo [2]
ghi ngày 07-10-1926 được gởi Quyền thống
đốc Nam Kỳ Le Fol,[3]
Thượng đầu sư Lê Văn Trung (1876-1934)[4]
hiệp cùng đồng đạo đă về Tây Ninh mượn
chùa G̣ Kén (Từ Lâm tự, Thiền Lâm tự) của Ḥa
thượng Như Nhăn tức Thích Từ Phong (1864-1939)[5]
để tổ chức đại lễ Khai minh Đại đạo,
chính thức công khai hóa sự ra đời của đạo
Cao Đài (19-11-1926). Từ
tháng 7-1926, v́ chùa kiến tạo c̣n dở dang, các môn
đệ Cao Đài, nhất là ông Nguyễn Ngọc Thơ
(1873-1950)[6]
và bà Lâm Ngọc Thanh (1874-1937)[7],
phải dốc rất nhiều tiền của và công
sức vào để hoàn thiện ngôi chùa và sửa sang
cảnh quan chung quanh cho khang trang, kịp cuộc lễ.[8]
Thế nhưng, sau lễ Khai minh Đại đạo, Ḥa thượng Như Nhăn đổi ư, không muốn làm Thái chưởng pháp trong hàng chức sắc Cao Đài, và ráo riết đ̣i lại chùa G̣ Kén. Ḥa thượng được hẹn sẽ nhận lại chùa trong ṿng ba tháng. Đến ngày 18-3-1927 (15-02 Đinh Măo), tuy quá hạn một tháng, các tiền bối Cao Đài vẫn chưa trả được chùa v́ chưa t́m được đất để thiên di.
Bấy
giờ đức Lư Giáo tông dạy các tiền bối: “Mai
này chư hiền hữu lên đường trên gọi là
đường dây thép [là đường từ Mít
Một chạy tới cửa Ḥa viện bây giờ],
nhắm địa thế dài theo cho tới ngă ba Ao Hồ.
Coi hiền hữu có thấy đặng chăng cho
biết. Lăo đă nói rằng mọi sự chi chi đều
bày trước mắt nhơn sanh hết.” [9] Hôm
sau (23-02-1927), các tiền bối Cao Quỳnh Cư (1888-1929)[10],
Phạm Công Tắc (1890-1959)[11],
Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Tương
(1881-1951)[12]
và Lê Bá Trang (1878-1936)[13],
cùng đi trên hai chiếc ô tô của hai tiền bối
Nguyễn Ngọc Thơ và Lâm Ngọc Thanh, tiếp tục
khảo sát địa thế t́m kiếm một nơi lư
tưởng ở tận trong chốn hoang vu, sơn lam chướng
khí, c̣n nhiều thú dữ. Đi
đến cánh rừng cấm (nay là cửa số 2
nội ô Ṭa thánh Tây Ninh), tiền bối Cao Quỳnh Cư
bắt gặp một tấm bảng ghi tên người
bạn học cũ là Cao Văn Điện. Nhờ ông
Điện hướng dẫn, các tiền bối chọn
được bên cạnh mảnh rừng của ông Điện
một khoảnh rừng khác, thuộc sở hữu
của Aspar, một kiểm lâm người Pháp. Ông này ra
giá 20.000 đồng, các tiền bối mặc cả
khoảng 17 hay 18.000 th́ Aspar thuận bán.
Chọn
khoảnh rừng ấy xét ra có ưu thế hơn so
với các nơi khác ở Tây Ninh, v́: Cẩm Giang th́ khó
khăn về lương thực, ăn uống; Bến Kéo
địa thế nhỏ hẹp; Suối Vàng tuy được
phong thổ tốt nhưng lại trở ngại về phương
tiện chuyên chở... Hơn nữa, theo phong thủy, khu
rừng ấy ở thế đất rất tốt, v́
đức Lư Giáo tông cho biết sâu dưới ḷng đất
300 mét có sáu mạch nước tụ lại, gọi là lục
long pḥ ấn (sáu rồng giữ ấn).[14]
Trước
hết, để dời cơ sở từ chùa G̣ Kén ra,
năm 1927 phải cất thánh thất tạm bằng mái
tranh, vách ván, nằm trên một phần của nền Ṭa
thánh Tây Ninh hiện nay, nhưng dĩ nhiên nhỏ hơn
nhiều. Các
tiền bối tổ chức khai hoang, lúc đầu
chỉ tập trung ở khoảnh rừng mua lại
của Aspar, nhưng theo lời dạy của đức Lư
Giáo tông các tiền bối xin khẩn thêm rừng gần
đó để mở rộng khu vực.[15]
Ngày nay, vùng đất ấy đă trở thành chốn
quần cư có xóm làng đông đúc, th́ chắc
chắn không thể nào phủ nhận công lao của
những tiền bối Cao Đài khẩn hoang khai phá
một miền biên cương heo hút của đất nước
hồi đầu thế kỷ XX.[16] Ngày
28-02-1927, đức Lư Giáo tông dạy các tiền bối
về vị trí xây dựng và kích thước Đền
thánh. Sơ đồ Đền thánh là do đức Lư
vẽ, v́ đàn hôm ấy Ngài dạy: “Lăo
phải vẽ mới đặng. Hộ pháp, Thượng
phẩm! Nội trưa này phải cắm một cây
viết vào đầu cơ, lấy một miếng
giấy lớn vào Điện pḥ loan cho Lăo vẽ.” Theo
đàn cơ trước đó (23-02-1926), đức Lư
dạy rằng Đền thánh sẽ được
cất theo kiểu của Bạch ngọc kinh. Do
chiến tranh, mà cũng do thiếu hụt tài chánh, để
Đền thánh Tây Ninh có được kiến trúc như
hiện nay, đă phải trải qua nhiều bước
đường lịch sử thăng trầm.[17]
II.
KHÁI QUÁT KÍCH THƯỚC ĐỀN THÁNH
Đền
thánh gồm có ba phần:
Phía trước là Hiệp thiên đài, với hai tháp vuông
nhô cao làm lầu chuông và lầu trống. Giữa là
Cửu trùng đài với tháp tṛn ở giữa nóc làm
Nghinh phong đài. Cuối là Bát quái đài với tháp
nhọn tám mặt. Nếu
theo đúng dự án ban đầu (1927), lẽ ra Đền
thánh Tây Ninh đồ sộ hơn kiến trúc hiện nay
rất nhiều. Kích thước Đền thánh theo
dự án như sau: -
nền cao 9m; -
chiều dài 135m (gồm Hiệp thiên đài 27m, Cửu trùng
đài 81m, Bát quái đài 27m); -
chiều ngang 27m; -
mặt tiền (lầu chuông và trống) cao 36m;[18] -
ở cuối (Bát quái đài) cao 30m; -
ở giữa Cửu trùng đài (Nghinh phong đài) cao 25m. Tuy
nhiên, để tiết giảm tài chánh, bản vẽ
đă phải thâu bớt lại các số đo trên. Nhưng
v́ một lư do nào đó, trước đây các sách thường
nói khác nhau về kích thước của Đền thánh
Tây Ninh (hồ sơ xây dựng không c̣n?). Một
nhà nghiên cứu Cao Đài là Hiền tài Nguyễn Văn
Hồng đă
tỉ mỉ tính toán lại toàn bộ kích thước
của kiến trúc Đền thánh Tây Ninh hiện nay. Cách
tính của ông Hồng có thể có sai số không đáng
kể. Dưới đây là kết quả đo đạc
Đền thánh Tây Ninh của ông Hồng (trích): -
Chiều ngang, kể cả hành lang hai bên: 22m. -
Chiều dài, từ bậc thềm chót trước
Tịnh tâm đài tới cuối Bát quái đài: 97,5m. -
Chiều cao tính tới đỉnh lầu chuông, lầu
trống: 28,2m. -
Chiều cao tính tới đỉnh Phi tưởng đài:
14m. -
Chiều cao tính tới đỉnh Nghinh phong đài: 17m. -
Chiều cao tính tới đỉnh Bát quái đài: 19m. Tổng
cộng ở tầng trệt có 156 cây cột tṛn đắp
rồng hoặc hoa sen... III.
KHÁI QUÁT MỘT VÀI Ư NGHĨA BIỂU TRƯNG TRONG KIẾN
TRÚC ĐỀN THÁNH 1.
Tổng thể Đền thánh Người
giàu trí tưởng tượng khi nh́n tổng thể
kiến trúc Đền thánh có thể thấy Đền
thánh mang h́nh tượng long mă,
con vật linh huyền thoại đă xuất hiện trên
sông Hoàng Hà để trao cho Phục Hy bức Hà đồ,
và những vạch trên lưng thú đă gợi ư cho
Phục Hy vẽ thành bát quái tiên thiên. Như thế: –
Đầu long mă là mặt tiền, nh́n thẳng về phía
tây. Từ cột phướn nh́n thẳng vào, Bạch
ngọc chung đài (lầu chuông bên phải) và Lôi
âm cổ đài (lầu trống bên trái) vươn lên
như hai sừng nhọn. Thấp
hơn, và nằm giữa hai lầu chuông, trống là ṭa
lầu ba tầng. Tầng trệt (Tịnh tâm điện) như mồm long mă há to.
Hai
hàng cột đắp rồng, đắp hoa sen chống
đỡ bao lơn ở tầng một (Hiệp thiên đài) như những chiếc răng
lớn nhe ra. Tầng
hai (Phi tưởng đài)
như cái trán, giữa hai cửa (hai con mắt) là h́nh Thiên
nhăn (mắt huệ). –
Đuôi long mă là Bát quái đài,
hướng ngay phía đông. –
Thân ḿnh là phần nhà dài ở giữa phân thành chín
“gian” (Cửu trùng đài), cao dần từ trước
ra sau, nối liền Hiệp thiên đài và Bát quái đài.
Trên nóc Cửu trùng đài, nơi chính giữa, nhô lên
một tháp tṛn (Nghinh phong đài),
trông giống như cái hộp đựng Hà đồ
buộc trên lưng long mă. 2.
Phương hướng Đền thánh
Đền
thánh nằm theo hướng đông tây: phần sau (Bát quái
đài) nằm về hướng đông, mặt tiền
(với hai lầu chuông, trống) xoay về hướng tây.
Trong
xây dựng, có nhiều tiêu chuẩn chọn hướng.
Theo thuật phong thủy, khi cất nhà, người ta căn
cứ tuổi của gia chủ để chọn hướng.
Khi không có điều kiện để xem hướng chi
li được th́ người ta quen chọn theo kinh
nghiệm dân gian. Có
câu Lấy vợ đàn bà, làm
nhà hướng nam. Làm nhà hướng nam để hưởng
gió mát. Hướng đông nam cũng là hướng
được ưa thích v́ vừa có gió mát, vừa có
nắng sớm. Trên những khu đất mới quy
hoạch, khi phân lô, để dễ bán hết các nền
nhà, người ta cũng tính toán để không có dăy
phố nào phải xoay mặt về hướng tây. Chưa
rơ trong đạo Thiên Chúa khi cất nhà thờ có xem phương
hướng hay không. Mặt tiền nhà thờ Đức
Bà ở thành phố Saigon xoay về hướng đông
nam. Mặt tiền nhà thờ Tân Định xoay về hướng
đông bắc. Mặt
tiền chùa Vĩnh Nghiêm cũng xoay về hướng
đông bắc. Nhưng trong phép cất chùa, nếu hoàn
cảnh cho phép, một số chùa thường chọn
mặt tiền xoay về hướng đông, như
vậy nơi thờ Phật sẽ nằm về hướng
tây. Có người giải thích: Phật ở phương
tây, cực lạc ở phương tây (v́ vậy
Đường tăng từ phương đông đi
sang phương tây thỉnh kinh), cất chùa nên đặt
theo hướng sao cho tượng Phật ngồi xoay lưng
về hướng tây, mặt nh́n về hướng đông. Nói
chung, chỉ trừ khi nào làm nhà hay cất chùa trong
một khu phố đă thành h́nh, bắt buộc phải
tuân theo phương hướng đang có, kỳ dư khi
xây dựng trên đất trống, đất mới, người
ta hoàn toàn tự do chọn hướng theo sở thích và
yêu cầu của ḿnh. Đền
thánh vốn được xây dựng trên đất
rừng vỡ hoang, bốn bên trống trải. Như
thế khi vẽ sơ đồ kiến trúc Đền thánh,
việc chọn hướng cho Đền thánh hoàn toàn là
tự do, không hề bị bó buộc bởi môi trường
chung quanh. Tuy nhiên đức Lư Giáo tông đă chọn hướng
tây: Đền thánh nằm theo trục đông tây, mặt
tiền xoay về hướng tây, c̣n Bát quái đài, nơi
thờ đức Thượng đế nằm về hướng
đông. Mỗi
ngày người tín đồ Cao Đài có bốn
giờ cúng. Mỗi thời cúng đều đọc bài Khai
kinh, mở đầu với hai câu: Biển
trần khổ vơi vơi trời nước,/Ánh thái dương
giọi trước phương đông... H́nh ảnh này
c̣n được thể hiện trên thánh tượng Thiên
nhăn. Ánh
thái dương tượng trưng cho ánh sáng đạo
pháp. Vầng dương hiện lên th́ xóa tan bóng đêm
tăm tối; đạo pháp đến th́ khổ năo vô
minh không c̣n nữa. Vầng dương hiện ở phương
đông tức là đạo pháp giải thoát cũng đến
từ phương đông. Phải chăng đó là lư do
Bát quái đài (cũng là ngôi thờ đức Chí tôn và
chư thần thánh tiên phật) được đặt
về hướng đông? Hai
câu kinh Biển trần khổ
vơi vơi trời nước,/Ánh thái dương
giọi trước phương đông... ngoài ư nghĩa
nhân bản là đạo pháp
vị nhân sinh, c̣n mang một ư nghĩa sâu xa về con
đường vận động của lịch sử tư
tưởng triết giáo, văn minh nhân loại: Khi đặt
ngôi Thượng đế ngự ở hướng đông
là thể hiện ư vạn giáo, vạn pháp, văn minh nhân
loại... đă từ phương đông truyền sang phương
Tây. Trước
đây Gaston Georgel (Les Rythmes de
l’histoire. Belfort, 1937, p. 101) khảo sát lịch sử văn
minh nhân loại đă phát biểu rằng “Ánh
sáng đến từ phương đông.” (L’Orient,
d’où nous vient la lumière.) Ông thấy, các
nền văn minh di chuyển từ đông sang tây và các
trung tâm lần lượt là Trung Hoa, Ấn Độ, Ba Tư,
Chaldée, Syrie, Hy Lạp, La Mă và sau cùng là Paris. (... les civilisations se déplacent de l’Est vers l’Ouest et leurs
foyers successifs sont: la Chine, l’Inde, la Perse, la Chaldée, la Syrie, la
Grèce, Rome et enfin Paris...). Cuối
thế kỷ 20, các nhà tương lai học (futurologists)
dự báo rằng trung tâm của thế giới trong thiên
niên kỷ thứ ba sẽ là phương đông, là châu
Á, mà cụ thể hơn nữa là chính tại khu vực
châu Á -
Thái B́nh Dương.[19]
Ở khu vực này, Việt Nam chính là ngă tư giao lưu
quốc tế (thánh giáo Cao Đài đă gọi Việt
Nam là cái rún của năm châu).[20]
Có
thể nhắc lại ư kiến đáng chú ư của
John Naisbitt: Ngày nay xu hướng
toàn cầu đang buộc chúng ta giáp mặt với
một thực tại là sự trỗi dậy của phương
Đông. Chúng ta đang chuyển động theo hướng
Á châu hóa thế giới. Trục
ảnh hưởng toàn cầu đă chuyển từ phương
Tây sang phương Đông.
Châu Á có lúc từng là trung tâm của thế giới và
ngày nay trung tâm thế giới lại đang trở về
châu Á.[21]
Nói
châu Á như Naisbitt, phạm vi hăy c̣n rộng. Hoàng Đ́nh
Phu đă khoanh vùng châu Á, vạch rơ địa giới chính
là châu Á -
Thái B́nh Dương: “Nhiều
nhà phân tích chiến lược cho rằng thế giới
đang bước sang kỷ nguyên châu Á-Thái
B́nh Dương. Thế kỷ 19 là thế kỷ của châu
Âu, thế kỷ 20 là thế kỷ của Hoa Kỳ, c̣n
thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ châu Á-Thái B́nh Dương.”
[22] “Quá
tŕnh toàn cầu hóa (...) sẽ làm cho thế kỷ 21,
thế kỷ châu Á-Thái
B́nh Dương trở thành thế kỷ vĩ đại
của sự dung hợp văn hóa Đông Tây, của
nền văn minh châu Á-Thái
B́nh Dương. Đó là xu thế không thể cưỡng
lại của lịch sử và văn minh nhân loại.”-[23]
Tóm
lại, các nhà tương lai học đă dự báo
rằng văn minh của nhân loại trong thiên niên kỷ
thứ ba sẽ chuyển hướng, đi từ tây
trở về đông, mà trung tâm của năm châu sẽ
là khu vực châu Á -
Thái B́nh Dưong. Nói
theo sử quan Cao Đài, phải chăng con đường
từ đông sang tây là con đường xuất hay văng
(đi ra), bao gồm Nhất kỳ và Nhị kỳ Phổ
độ? Sang đến Tam kỳ Phổ độ là con
đường nhập, hay lai (đi vào, phản
phục), th́ đi ngược từ tây trở qua
đông. Thế nên, mỗi khi bước vào Đền thánh
hành lễ, con người bắt đầu từ ngoài
cửa tiến vào nội điện, tức là đang
đi theo chiều tây-đông (chiều quy nguyên phản
bản) của Tam kỳ Phổ độ. Ư nghĩa này cũng
được biểu thị bằng tượng long mă
đắp trên đỉnh Nghinh phong đài.
3.
Tượng long mă trên đỉnh Nghinh phong đài
Đỉnh
Nghinh phong đài giống như một bán cầu, trên
đắp tượng long mă. Long mă chạy từ đông
sang tây (xuôi chiều với Đền thánh), nhưng
lại ngoái đầu nh́n ngược về phía đông.
Long
mă là con thú linh trong huyền sử. Long mă đă hiện
ra trên sông Hoàng hà, mang đến cho Phục Hy bức Hà
đồ; những vạch trên lưng long mă đă
gợi ư cho Phục Hy tạo ra bát quái tiên thiên, nền
tảng của kinh Dịch. Vậy long mă ở đây là
biểu tượng của Đạo. Long mă chạy
từ đông sang tây tức là Đạo đă từ phương
đông truyền sang phương tây; long mă ngoái đầu
nh́n ngược về đông tức là nhân loại
sẽ quy nguyên, sẽ quay về cội nguồn phương
đông để học đạo. 4.
Đi vào Đền thánh (khái quát) Từ
bên ngoài, đi vào Đền thánh theo chính diện,
phải bước lên năm bậc thềm
bằng đá mài màu nâu, tượng trưng cho năm
cấp tiến hóa của con người: Người,
Thần, Thánh, Tiên, Phật. Đi
qua khỏi các cột rồng và cửa chính th́ tới Tịnh
tâm điện, ngụ ư con người trước khi
vào bên trong Đền thánh phải dọn ḷng thanh
tịnh (trong sạch). Đi
qua khỏi Tịnh tâm điện th́ tới bậc
thứ nhất của Cửu trùng đài. Đứng
ở đây nh́n thẳng về trước là Bát quái
đài, mà ngay sau lưng là Hiệp thiên đài, điều
này có nghĩa là trước khi đến Bát quái đài
(Trời) con người phải đi qua Hiệp thiên
đài, bởi lẽ Hiệp thiên đài là bộ
phận thông công, giúp con người hiệp với
Trời. 5.
Cửu trùng đài Cửu
trùng đài ở Đền thánh là nơi các chức
sắc và tín đồ hành lễ triều kính đức
Chí tôn và chư phật tiên, thánh thần. Liên quan đến
số 9, nền Cửu trùng đài xây từ thấp lên
cao (theo hướng tây đông) thành chín
bậc (mỗi bậc rộng 7m), bậc trên cao hơn
bậc dưới 18cm (bội số của 9), mỗi
bậc ngăn cách nhau bằng hai cột rồng xanh,
tổng cộng có mười tám cột (bội số
của 9) đứng thành hai hàng song song. Cửu
trùng đài chín bậc tương
ứng với hệ thống giáo phẩm chín
bậc như sau, từ thấp lên cao: tín
đồ (đạo hữu), chức việc bàn trị
sự, lễ sanh, giáo hữu, giáo sư, phối sư và
chánh phối sư, đầu sư, chưởng pháp, giáo
tông. Chín bậc này cũng tương ứng với
cửu phẩm thần tiên là (từ thấp lên cao): địa
thần, nhân thần, thiên thần, địa thánh, nhân thánh,
thiên thánh, địa tiên, nhân tiên, thiên tiên. 6.
Bát quái đài
a.
Bát quái theo truyền thống (kinh Dịch) Bát
quái là tám quẻ, mỗi
quẻ là một kư hiệu (phù hiệu) gồm ba
vạch (hào), chồng lên nhau, hoặc toàn vạch đứt
(hào âm – –) như quẻ
Khôn, hoặc toàn vạch
liền (hào dương ––)
như quẻ Càn, hoặc
kết hợp cả vạch đứt và vạch liền
(sáu quẻ Đoài, Ly,
Chấn, Tốn, Khảm, Cấn). Tám quẻ tượng
trưng cho tám yếu
tố trong thiên nhiên (Càn: trời;
Khôn: đất; Đoài: đầm nước; Ly:
lửa; Chấn: sấm; Tốn: gió; Khảm: nước;
Cấn: núi). Mỗi quẻ
c̣n mang thêm nhiều ư nghĩa tượng trưng riêng liên
quan người, vật, v.v... Chẳng hạn: Càn:
cương kiện; Khôn: nhu thuận; Chấn:
động; Cấn: tĩnh;
Tốn: nhập vào; Khảm:
sa xuống; Ly: sáng
sủa; Đoài: vui vẻ... Ư
nghĩa tượng trưng của mỗi kư hiệu
(quẻ) trong bát quái có thể mở rộng phù hợp
với ư nghĩa căn bản của biểu tượng.
Như quẻ Càn, từ cái
nghĩa là trời,
cương kiện
lại được mở rộng thành: vua,
cha, rồng, ngựa, vàng, ngọc, v.v... V́ thế, tám
quẻ mở rộng ra đến cùng cực th́ có
thể bao quát các hiện tượng, trạng thái
của vũ trụ vạn vật; mà vũ trụ vạn
vật gom tóm lại th́ có thể quy về bát quái. Do
đó, Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ phát biểu: “Bát
quái có thể dùng tượng trưng cho muôn vật...”.[24] Phải
chăng ư nghĩa này của bát quái (trong mối tương
quan giữa bát quái và vũ trụ vạn vật) đă lư
giải v́ sao Bát quái đài là nơi thờ Thượng
đế theo nghĩa thờ đấng Tạo hóa đă
tạo lập vũ trụ càn khôn. Ngày 24-10-1926, Cao Đài
Tiên ông cũng giảng về mối tương quan
giữa Thượng đế, bát quái và vũ trụ như
sau: “Nên Thầy khai bát quái mà
tác thành càn khôn thế giái...” [25] Bát
quái đài ở Đền thánh gồm mười hai
bậc (mỗi bậc cao 10cm, có tám cạnh) bằng đá
mài màu vàng xây chồng lên nhau, nhỏ dần từ dưới
lên trên. Mười hai bậc này tượng trưng cho mười
hai tầng trời,[26]
v́ theo giáo lư Cao Đài, Thượng đế là Đấng
thập nhị khai thiên (lập
ra mười hai tầng trời), số 12 là số riêng
của Trời.[27]
Bậc chót hết đặt trên nền cao hơn mặt
đất 2,4 mét (bội số của 12), như vậy
bậc trên cùng cách mặt đất 3,6 mét (bội
số của 12). Bát quái đài có tám
cột rồng vàng ở tám
góc của bát quái. b.
Bát quái Cao Đài
Theo
truyền thuyết, Phục Hy tạo ra bát quái tiên thiên, tám
quẻ theo thứ tự: Càn,
Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Văn
Vương tạo ra bát quái hậu thiên, tám quẻ theo
thứ tự: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
(Ở đây, h́nh minh họa bát quái hậu thiên đă
không đặt nam trên và bắc
dưới theo truyền thống kinh Dịch Trung Hoa,
để dễ đối chiếu với bát quái Cao
Đài.) Bát
quái đài của Đền thánh Cao Đài Tây Ninh cho
thấy một trật tự tám quẻ khác hẳn các bát
quái trong kinh Dịch truyền thống. Như
trên đă nói, Bát quái đài gồm mười hai
bậc; ở bậc thứ mười hai cẩn tám
quẻ bát quái, nhưng không theo thứ tự tiên thiên
của Phục Hy (Càn, Đoài,
Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn), mà cũng không
theo thứ tự hậu thiên của Văn Vương
(theo chiều kim đồng hồ: Càn,
Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài). Bát
quái Cao Đài ở Đền thánh đổi chiều
xoay bát quái hậu thiên, tám quẻ được đặt
ngược chiều kim đồng hồ tức là cùng
chiều với chiều quay của trái đất quanh
mặt trời. Như vậy, chỉ có hai quẻ Chấn
(hướng đông) và Đoài
(hướng tây) giữ nguyên vị trí, sáu quẻ c̣n
lại đều đổi chỗ.
c.
Sử quan Cao Đài qua bát quái Cao Đài Tại
sao Cao Đài đổi chiều bát quái hậu thiên như
vậy? Theo sử quan Cao Đài, lịch sử văn minh,
tư tưởng triết giáo của nhân loại trải
qua ba thời kỳ, Nhất kỳ và Nhị kỳ
Phổ độ là chiều văng, chiều đi ra; Tam kỳ Phổ độ
là chiều lai, chiều đi vào. Con đường của
đạo Cao Đài (Đại đạo Tam kỳ
Phổ độ) là con đường phản
phục hay quy nguyên phản
bản. Nói cách khác, phải chăng có thể coi bát quái
hậu thiên của Văn vương là chiều văng (nhất tán vạn, của Nhất và Nhị
kỳ Phổ độ); c̣n bát quái Cao Đài là chiều
lai (vạn quy nhất)
của Tam kỳ Phổ độ? d.
Vũ trụ quan qua bát quái Cao Đài Trong
kiến trúc Đền thánh Tây Ninh, Bát quái đài ở
về hướng đông. Khi đặt ngôi thờ Thượng
đế (cũng là Thái cực Thánh hoàng, Đấng sáng
tạo vũ trụ) ở hướng đông th́ tương
ứng với cung Chấn
của Bát quái đài. Chấn là sấm động, là
tiếng nổ. Theo
vũ trụ quan Cao Đài, vũ trụ được
tạo thành từ một tiếng
nổ. Dường như đă có phần nào tương
đồng với lư thuyết “big-bang” khi thánh giáo Cao
Đài ngày 06-11-1936 giảng về sự tạo lập vũ
trụ như sau: “... nổ
tung ra một tiếng vang lừng dữ dội phi thường,
làm cho rúng động cả không gian ... Vũ trụ
từ đây mới bắt đầu có ngôi Thái cực
trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, thiên
biến vạn hóa, vô tận vô cùng, nắm trọn
quyền hành, thống chưởng cả càn khôn vũ
trụ ... hóa sanh muôn loài vạn vật.” [28]
° Tóm
lại, hướng đông tây của Đền thánh cũng
như của tượng long mă trên đỉnh Nghinh phong
đài, phương vị tám quẻ ở bát quái đài,
vị trí ngôi thờ đức Chí tôn ở hướng
đông đă cho thấy ẩn tàng sử quan và vũ
trụ quan của Cao Đài. Sự t́m hiểu trên đây
cũng cho thấy rằng đạo Cao Đài quả
thực đă có những nét rất riêng khi “nói khác”
truyền thống cũ của triết giáo phương
Đông. Điều ấy chính là một phần của
bản sắc văn hóa Cao Đài vậy. (Phú
Nhuận, 03-01-2003) LÊ
ANH DŨNG Nhiều
phần khác nhau của bài viết đă được trích
đăng các tạp chí: Xưa & Nay (Hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam), số 62B (tháng
4-1999); Văn hóa Nghệ thuật (Bộ Văn hóa),
số 222 (tháng 12-2002); Nghiên cứu và Phát triển (Sở
Khoa học, Công nghệ và Môi trường tỉnh
Thừa Thiên – Huế), số 39 (quư 1-2003). Đă nói
chuyện tại Cơ quan Phổ thông Giáo lư, 9.00 giờ sáng
thứ Sáu 03-01-2003 (01-12 Nhâm Ngọ).
[1]
Từ xưa dân gian đă có câu: Mùng
chín vía Trời, mùng mười vía đất. Vía
nguyên nghĩa là ngày sinh; sau này dân gian dùng với nghĩa
rộng răi hơn, là bất kỳ một ngày kỷ
niệm nào của các đấng thiêng liêng. [2]
Thực chất đây là Tuyên
ngôn khai Đạo. [3]
Trước đây, trong Lịch
sử đạo Cao Đài thời kỳ tiềm
ẩn 1920-1926 (Huế: NXB Thuận hóa, 1996), tôi đă
viết là “Thống đốc”, như vậy là
thiếu chính xác. Trong Tờ khai Đạo gởi Le
Fol, tiền bối Lê Văn Trung mở đầu
bằng câu chào “Monsieur le
Gouverneur”, nên hiểu là phép lịch sự trong xưng
hô. Thực vậy, khi Thống đốc Nam Kỳ
Maurice Cognacq măn nhiệm, Aristide Eugène Le Fol là tham
biện hạng nhất (administrateur
de 1ère classe), được bổ làm
quyền thống đốc Nam Kỳ ngày 09-4-1926,
nhậm chức ngày 19-4-1926, và chấm dứt nhiệm
vụ sau khi tiếp nhận Tờ khai Đạo
khoảng ba tháng, bởi
v́ ngày 09-11-1926 Paul Marie Alexis Joseph Blanchard de la Brosse
được bổ làm thống đốc Nam Kỳ,
nhậm chức ngày 30-12-1926. Ngạch của De la Brosse là
thống đốc các thuộc địa (gouverneur
des colonies). [4]
Ông sinh ngày 25-11-1876 (10-10 Bính Tư) tại làng Phước
Lâm, tổng Phước Điền Trung, huyện
Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn, con ông Lê Văn
Thanh (1845-1878) và bà Văn Thị Xuân (1849-1912). Ông
nhập môn Cao Đài tháng 01-1926, thọ thiên phong Thượng
đầu sư ngày 26-4-1926 (15-3 Bính Dần), rồi
Quyền giáo tông ngày 22-11-1930 (03-10 Canh Ngọ), quy thiên
ngày 19-11-1934 (13-10 Giáp Tuất). Tượng của ông
được đắp ở lầu chuông của
Đền thánh Ṭa thánh Tây Ninh. Tro thiêu di cốt
của ông được đặt trong hầm, ngay bên
dưới Bát quái đài của Đền thánh. [5]
Ông sinh tại Đức Ḥa, Long An, tên là Nguyễn Văn
Tường, con ông Nguyễn Văn Bầu và bà Đoàn
Diệu Hoa. Năm 17 tuổi ông quy y với Ḥa thượng
Minh Đạt (Thích Trí Lượng) tại chùa
Thiền Lâm (xóm Chùa, Tây Ninh). Sư Như Nhăn thuộc
tông Lâm Tế, đời thứ 39. Năm 1890, sư
về tổ đ́nh là chùa Giác Lâm (Tân B́nh). Năm
1885 bà Trần Thị Liễu cúng 1,2 ha đất ở
Phú Lâm để cất chùa Giác Hải, và sư
về đấy trụ tŕ. Sư tạ thế ngày
24-01-1939 (05-12 Mậu Dần), táng tại chùa Thiền Lâm.
Sau này, cốt được bốc và thiêu, một
phần tro chia về chùa Giác Hải (1952). [6]
Ông sinh tại Băi Xàu, Sóc Trăng, tên thật là
Nguyễn Văn Tơ, con ông Nguyễn Hưng Học
(1839-1899) và bà Trần Thị Thảo. Ông từng quy y
với Ḥa thượng Như Nhăn. Sau khi chồng bà Lâm
Ngọc Thanh là Huỳnh Văn Xây qua đời (1919), ông
tục huyền với bà Thanh. Ông nhập môn Cao Đài
ngày 24-6-1926 (15-5 Bính Dần), thọ thiên phong Quyền
Thái đầu sư (1930), quy thiên ngày 02-9-1950 (20-7 Canh
Dần) tại Phú Lâm. Ông và bà Thanh đều là
mạnh thường quân của chùa Giác Hải. Tro thiêu
di cốt của ông hiện đặt trong hầm, ngay
bên dưới Bát quái đài của Đền thánh. [7]
Bà sinh tại làng Trung Tín, Vũng Liêm, Vĩnh Long, con bà
Trần Thị Sanh (1855-1906). Bà quy y với Ḥa thượng
Như Nhăn ở chùa Giác Hải (1919), rồi nhập môn
Cao Đài ngày 14-7-1926 (05-6 Bính Dần), thọ thiên phong
phẩm Chánh phối sư ngày 18-4-1929 (09-3 Kỷ
Tỵ), quy thiên tại quê nhà ngày 17-5-1937 (08.4 Đinh
Sửu), thọ thiên ân truy thăng Đầu sư ngày
02-6-1937 (24-4 Kỷ Tỵ). Tượng của bà
được đắp ở lầu trống của
Đền thánh Ṭa thánh Tây Ninh. Tro thiêu di cốt
của bà hiện đặt trong hầm, ngay bên dưới
Bát quái đài của Đền thánh. [8]
“Bấy giờ chung quanh chùa
c̣n um tùm cây cối, bụi rậm, chùa chưa
được sơn phết, nền đất c̣n nguyên,
từ chùa ra đường cái chưa có lối đi. “Được
cho mượn chùa, hai ông bà Thơ, Thanh lại tiếp
tục đem tiền bạc thuê thợ hoàn chỉnh
cảnh chùa cho khang trang, đốn cây, làm vườn,
trồng hoa kiểng, và nhất là cho đắp con
lộ đá từ chùa ra tới đường cái
để xe ô tô dễ dàng chạy thẳng tới chùa…”
(Lê Anh Dũng, Lịch
sử đạo Cao Đài thời kỳ tiềm
ẩn 1920-1926. Huế: NXB Thuận hóa, 1996, tr. 153-154). [9]
Hương Hiếu, Đạo
sử. Quyển I. Ṭa thánh Cao Đài Tây Ninh (rô-nê-ô),
tr. 63. [10]
Ông sinh tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh Thượng,
Tây Ninh, con ông Cao Quỳnh Tuân (1844-1896) và bà Trịnh
Thị Huệ (1835-1946). Ông nhập môn Cao Đài ngày
16-12-1925 (01-11 Ất Sửu), thọ thiên phong Thượng
phẩm ngày 19-11-1926 (15-10 Bính Dần), quy thiên ngày
10-4-1929 (01-3 Kỷ Tỵ) tại Tây Ninh. Tượng Cao
Thượng phẩm được đặt ở
Hiệp thiên đài Đền thánh, đứng bên
phải tượng Hộ pháp Phạm Công Tắc. Tro
thiêu di cốt của ông hiện đặt trong
hầm, ngay bên dưới Bát quái đài của Đền
thánh. [11]
Ông sinh ngày 21-6-1890 (05-5 Canh Dần) tại làng B́nh
Lập, tỉnh Tân An, con ông Phạm Công Thiền và bà
La Thị Đường. Gia đ́nh ông nguyên là tín
đồ Thiên Chúa giáo. Ông nhập môn Cao Đài ngày
16-12-1925 (01-11 Ất Sửu), thọ thiên phong Hộ pháp
ngày 26-4-1926 (15-3 Bính Dần), quy thiên ngày 17-5-1959 (10-4
Kỷ Hợi) tại Nam Vang, Cam Bốt. Tượng
Phạm Hộ pháp được đặt ở
Hiệp thiên đài Đền thánh, bên trái Hộ pháp
là tượng Thượng sanh Cao Hoài Sang (1901-1971), bên
phải Hộ pháp là tượng Thượng phẩm
Cao Quỳnh Cư. [12]
Ông sinh ngày 22-6-1881 (26-5 Tân Tỵ) tại làng An Hội,
tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, con ông
Nguyễn Ngọc Đẩu (1857-1882) và bà Vơ Thị Sót
(1856-1919). Ông nhập môn Cao Đài khoảng thượng
tuần tháng 02-1925 (hạ tuần tháng Chạp Ất
Sửu), làm Giáo tông Hội thánh Cao Đài Bến Tre
(bầu cử năm 1935), quy thiên ngày 18-6-1951 (15-5 Tân Măo)
tại Ṭa thánh Bến Tre. [13]
Ông sinh ngày 18-02-1878 (17-01 Mậu Dần) tại làng Tân
Quy Đông, xă Tân Vĩnh Ḥa, tỉnh Sa Đéc, con ông Lê
Văn Lâu và bà Trần Thị Nga. Ông nhập môn Cao
Đài tháng 5-1926, làm Thượng chưởng pháp
Hội thánh Cao Đài Bến Tre do bầu cử ngày
13-12-1934 (07-11 Giáp Tuất), quy thiên ngày 18-7-1936 (30-5 Bính
Tư) tại Bến Tre. Tro thiêu di cốt của ông
hiện đặt trong hầm, ngay bên dưới Bát quái
đài của Đền thánh. [14]
Hương Hiếu, sđd.,
tr. 64. [15]
Khi khai hoang, người đàng Thổ (Khơ-me) kéo
về giúp công có khi cả ngàn người. Chánh tham
biện Tây Ninh mời ông Cao Quỳnh Cư ra Ṭa Bố
(dinh chủ tỉnh) chất vấn. Ông Cư nói thác là
khai hoang trồng cây cao su. Lại được hỏi
khai khẩn bao nhiêu mẫu, ông Cư khôn khéo đáp:
Trồng hết chỗ đất đă mua, phá hoang
tới đâu th́ trồng tiếp tới đó. Các ông
v́ thế phải cho trồng một ít cây cao su mà ngày
nay hăy c̣n sót lại trong Nội ô Ṭa thánh Tây Ninh như
dấu tích lịch sử. [16]
“Tại vùng Ṭa thánh Tây
Ninh chẳng hạn, sự di cư của tín đồ
Cao Đài tới đây diễn ra làm nhiều đợt.
(...) Đạo Cao Đài đă đóng một vai tṛ
quan trọng trong việc tổ chức khai khẩn đất
đai buổi đầu cũng như trong việc
ổn định sản xuất, ổn định
cuộc sống của người định cư
nhiều đợt nối tiếp nhau sau này (hiện
nay, thông qua hệ thống đường sá, ngơ xóm,
chợ búa ở khu vực xung quanh Ṭa thánh, chúng ta cũng
thấy được dấu vết của một
sự bố trí tổng thể rất rơ). Những người
mới định cư rời bỏ cộng đồng
làng cũ của ḿnh tới đây đă mau chóng
được gia nhập một cộng đồng
mới.” (Tạp chí Nghiên
cứu tôn giáo. Hà Nội: 1999, Số 2, tr. 43, chú thích
8.) [17]
Tóm tắt quá tŕnh xây dựng Đền thánh: 1927:
Cất thánh thất tạm bằng cây, ván.
1931:
Thái
chánh phối sư Nguyễn Ngọc Thơ cho đào móng,
làm nền, đào hầm Bát quái đài. V́ thiếu
tiền, phải ngưng. 1933:
Quyền giáo tông Lê Văn Trung, Nữ chánh phối sư
Hương Thanh tiếp tục công tŕnh, chỉ làm
được một ít. 1935:
Tiếp thế Lê Thế Vĩnh cất được
lầu Hiệp thiên đài, đúc cột, đổ
tấm trần, rồi phải ngưng. 14-12-1936:
Hộ pháp Phạm Công Tắc chỉ huy 500 tín đồ
làm công quả xây dựng Đền thánh Tây Ninh.
Tiền bạc, vật liệu, lương thực...
được các địa phương ủng hộ
tích cực. 28-6-1941:
Thực
dân Pháp chiếm đóng Ṭa thánh Tây Ninh, bắt Hộ
pháp Phạm Công Tắc đày sang đảo Madagascar
(châu Phi). Đền thánh Tây Ninh đă cơ bản hoàn
thành, chưa xong các công đoạn trang trí, nhưng
phải ngưng lại, các công thợ trở về quê
xứ. 30-8-1946:
Hộ
pháp Phạm Công Tắc trở về Ṭa thánh Tây Ninh và
tiếp tục tu bổ, hoàn thiện công tŕnh kiến
trúc. 24-01-1947:
Công
tŕnh hoàn tất, dưới sự coi sóc chung của
Tổng giám Lê Văn Bàng. 29-01-1947:
an vị quả Càn khôn. 01-02-1955:
Lễ Vía Trời (09-01 Ất Mùi, Hộ pháp Phạm Công
Tắc chính thức khánh thành trọng thể Đền
thánh. [18]
Ba số 135, 27 và 36 đều là bội số của
9, một con số thiêng theo Dịch lư. [19]
Tôi đă tŕnh bày vấn đề này trong bài nói
chuyện Người đạo Cao Đài trước
thềm thiên niên kỷ mới, tại Cơ quan
Phổ thông Giáo lư Đại đạo (9.00 sáng
thứ Sáu 27-10-2000). [20]
Cần lưu ư thêm, hiện nay đường Liên Á
(thường gọi là Xuyên Á) đang được xây
dựng, đường này đi qua tỉnh Tây Ninh. [21]
John Naisbitt, Những xu hướng
lớn của châu Á làm thay đổi thế giới.
NXB Trẻ, 1998, tr. 16. [22]
Hoàng Đ́nh Phu, Xu thế
thế giới trong những thập niên đầu
thế kỷ 21. Hà Nội: NXB Khoa học và kỹ
thuật, 2000, tr. 30. [23]
Hoàng Đ́nh Phu, sđd., tr.
32. [24]
Nhân Tử Nguyễn Văn Tho, Dịch
kinh đại toàn. Tập III. California: 1997, tr. 579. [25]
Thánh
ngôn hiệp tuyển. Quyển I. Sài G̣n: 1928, tr. 42. [26]
Mười
hai tầng trời gồm có cửu trùng thiên (chín
tầng: tầng 1, tầng 2, Thanh thiên, Huỳnh thiên, Xích thiên, Kim thiên, Hạo
nhiên thiên, Phi tưởng thiên, Tạo hóa thiên)
cộng thêm ba tầng nữa: Hư vô thiên, Hội nguơn thiên, Hỗn nguơn
thiên. [27]
Cho nên khi lạy Trời th́ 3 lạy, mỗi lần
lạy gật đầu 4 cái, tương
đương 12 lạy. Thánh giáo Cao Đài: “Thập
nhị khai thiên là Thầy, chúa cả càn khôn thế
giới (...). Số mười hai là số riêng của
Thầy.”
Thánh ngôn hiệp tuyển. Quyển I. Sài G̣n: 1928, tr. 12.
|
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|