Trở lại trang chánh của Website Thiên Lý Bửu Tòa

 

LÃO TỬ với

TÂY THĂNG KINH HÓA HỒ KINH

 

Lê Anh Minh

 

Tóm tắt: Khi một tôn giáo mới mẻ được du nhập vào một quốc gia thì ít nhiều sẽ phát sinh xung đột với một tôn giáo bản địa. Đó là trường hợp của Phật giáo trong giai đoạn bản địa hoá (localization) tại Trung Quốc. Tây Thăng Kinh Hoá Hồ Kinh là hai tác phẩm của Đạo giáo Trung Quốc nhằm tự đề cao tôn giáo mình, cho rằng Lão Tử sau khi truyền bộ Đạo Đức Kinh cho quan lệnh Doãn Hỉ trấn giữ Hàm Cốc quan thì ngài đã cỡi trâu đi sang hướng Tây để hoá độ người Hồ (tức người Ấn Độ) và đã truyền đạo cho Phật Thích Ca và 28 thiền tổ Ấn Độ. Bên Phật giáo cũng soạn sách phản bác lại. Hoá Hồ Kinh từ lâu đã bị xem là nguỵ thư và bị đốt bỏ từ đời Đường. Tuy vậy, sau khi Phật giáo đã được bản địa hoá (thậm chí Phật giáo còn vay mượn thuật ngữ của Đạo giáo trong việc phiên dịch kinh Phật sang Hán văn), vào đời  Minh và đời Thanh đã nổi lên tinh thần «Tam giáo (Nho-Thích-Đạo) hợp nhất», chủ trương «Tam giáo đồng nguyên» (Tam giáo cùng nguồn gốc). Bài viết này nằm giở lại trang sử cũ, đọc lại một sự kiện trong lịch sử tôn giáo:  một cuộc đại tranh luận non 1000 năm giữa Phật giáo và Đạo giáo trong quá trình phát triển của Phật giáo Trung Quốc kể từ khi du nhập, tức là từ đời Hán cho đến nay.

 

Hành trạng của Lão Tử sau khi rời đất Chu được ghi chép trong Tây Thăng Kinh 西昇經. Tây Thăng Kinh diễn giải yếu nghĩa của Đạo Đức Kinh. Tác phẩm này được đưa vào Động Thần bộ 洞神部 của Chính Thống Đạo Tạng 正統道藏. Tác giả và thời gian hình thành tác phẩm chưa rõ. Livia Kohn cho rằng Tây Thăng Kinh xuất hiện khoảng thế kỷ V cn nhưng không biết cụ thể niên đại và tác giả.[1]


Lão Tử kỵ ngưu 老子騎牛
(Lão Tử cưỡi trâu), tranh của Triều Bổ Chi
晁補之
(Triều Vô Cữu 晁無咎
, 1053-1110) đời Bắc Tống.

Theo Khanh Hy Thái, tác giả Tây Thăng Kinh mượn danh quan đại phu nhà Chu là Quan Lệnh Doãn Hỉ 關令尹喜 và căn cứ vào Lão Tử Đạo Đức Kinh mà soạn thành sách. Tên Tây Thăng Kinh lần đầu xuất hiện trong Thần Tiên Truyện 神仙傳 của Cát Hồng葛洪, như vậy khoảng đời Ngụy-Tấn, một đạo sĩ nào đó sáng tác ra. Hiện tồn bản Tây Thăng Kinh do Tống Huy Tông [tại vị 1101-1126] ngự chú 宋徽宗御注西昇經 (3 quyển, nhưng trong quyển chót của Đạo Tạng Tập Yếu 道藏集要 thì chép là một quyển) và bản Tây Thăng Kinh Tập Chú 西昇經集注 của đạo sĩ Trần Cảnh Nguyên 陳景元 (tức Bích Hư Tử 碧虛子, 1025-1094) đời Tống kết tập thành 6 quyển. Cả hai bản đều có 39 chương nhưng văn tự nhiều chỗ bất đồng.[2]

Theo Livia Kohn, ngoài hai bản trên, gần đây xuất hiện bản Tây Thăng Kinh do đạo sĩ Lý Vinh 李榮 (sơ Đường) chú. Bản này do Fujiwara Takao (Đằng Nguyên Cao Nam 藤原高男) công bố năm 1983.[3] Theo bản Tây Thăng Kinh do nữ giáo sư Livia Kohn (Đại học Boston) sưu tầm,[4] ngay chương đầu thuật lại việc Lão Tử đi sang Ấn Độ truyền đạo: «Lão Tử tây thăng, khai đạo Trúc Càn, hiệu Cổ tiên sinh, thiện nhập vô vi, bất chung bất thủy, vĩnh tồn miên miên. Thị dĩ, thăng tựu đạo kinh lịch quan. Quan Lịnh Doãn Hỉ kiến khí, trai đãi ngộ tân. Vị thuyết đạo đức, liệt dĩ nhị thiên.» (Chương 1: Tây thăng) 老子西昇,開道竺乾,號古先生,善入無為,不終不始永存綿綿.是以昇就道經歷關.關令尹喜見氣,齋待遇賓,為說道德,列以二篇 [1.西昇] (Lão Tử bay về hướng tây để mở đạo tại Trúc Càn (tức Ấn Độ). Ngài được gọi là Cổ tiên sinh, rất giỏi nhập vào vô vi, [nên ngài trở nên] vô thủy vô chung, miên miên trường tồn. Vì thế, ngài bay [về hướng tây] đem đạo đến ải quan. Quan lệnh ở đó là Doãn Hỉ trông thấy khí [đỏ tía] của ngài, bèn trai giới đón tiếp. [Lão Tử] vì quan lệnh mà thuyết hai chương đạo kinh và đức kinh.

Ấn Độ ngày xưa cũng gọi là Thiên Trúc 天竺, Tây Trúc 西竺, trong Tây Thăng Kinh gọi là Trúc Càn 竺乾. Chữ kiến khí 見氣 trong chương này ứng với câu rất nổi tiếng tử khí đông lai 紫氣東來 (làn khí đỏ tía từ hướng đông bay tới). Rõ ràng «tây thăng» là bay về hướng tây, tức là sang Ấn Độ.

Câu chuyện trên rất gần với những gì chép trong Thần Tiên Truyện 神仙傳 của Cát Hồng (khoảng đầu thế kỷ IV cn). Nhưng Cát Hồng 葛洪 ghi chép nhiều chi tiết ly kỳ ở Hàm Cốc quan 函谷關 thuộc núi Chung Nam 鐘南: «Lão Tử thuê một tiểu đồng tên Từ Giáp 徐甲 phục vụ với giá 100 tiền một ngày. Đến nay đã nợ Từ Giáp bảy triệu hai. Khi thấy Lão Tử sắp rời bỏ Trung Quốc, Từ Giáp bèn đòi tiền. Lão Tử không chịu trả. Một tên tôi tớ nơi Hàm Cốc quan biết chuyện bèn xúi Từ Giáp đi kiện nơi quan lệnh (Doãn Hỉ), nhưng hắn không biết rằng Từ Giáp theo hầu Lão Tử được trên 200 năm rồi. Hắn chỉ biết Từ Giáp sẽ có một món tiền lớn nên ngỏ ý gả con gái cho Từ Giáp. Thấy ả ta xinh gái, Từ Giáp rất bằng lòng. Họ rủ nhau đến gặp quan lệnh Doãn Hỉ. Ngài cực kỳ kinh ngạc. Bấy giờ Lão Tử nói với Từ Giáp rằng: ‘Mi lẽ ra đã chết từ lâu. Lần đầu gặp và thuê mi, mi là tên nô lệ nghèo mạt. Nhưng vì ta không có tiểu đồng nên mới thuê mi và cho mi sống lâu nhờ Thái Huyền thanh mệnh phù. Vì thế mà mi mới thấy ngày nay. Mi còn than phiền nỗi gì? Ta đã bảo khi nào đến Côn Lôn sẽ trả vàng cho mi, sao mi không chờ nổi?’ Lão Tử buộc Từ Giáp há mồm và bảo mọi người nhìn xuống mặt đất. Chiếc phù phóng ra khỏi miệng Từ Giáp, cắm thẳng xuống đất, trên đó có chữ đan đọc còn rõ. Ngay tức khắc Từ Giáp biến thành bộ xương. Quan lệnh từ bi, xin Lão Tử cứu Từ Giáp sống lại. Từ Giáp sống lại, Lão Tử trả tiền công và đuổi hắn đi. Từ đó Doãn Hỉ rất sùng bái Lão Tử và xin ngài truyền bí thuật trường sinh. Lão Tử truyền lại Đạo Đức Kinh, Doãn Hỉ theo đó mà tu luyện thành tiên.» [5]

Thần Tiên Truyện cho rằng Lão Tử đi về núi Côn Lôn và Tây Thăng Kinh cho rằng Lão Tử bay về hướng tây truyền đạo ở Ấn Độ (Hóa Hồ). Thuyết Lão Tử Hóa Hồ (the conversion of the barbarians) thực sự bắt đầu xuất hiện từ đời Đông Hán thời vua Hoàn Đế 桓帝. Bấy giờ quan thượng thư Tương Khải 襄楷 [6] (năm 116 cn) trình tấu với Hán Hoàn Đế rằng: «Hoặc ngôn Lão Tử nhập di địch vi Phù Đồ,[7] Phù Đồ bất tam túc tang hạ, bất dục cửu sinh ân ái, tinh chi chí dã. Thiên thần di dĩ hảo nữ, Phù Đồ viết: Thử đản cách nang thịnh huyết, toại bất phán chi. Kỳ thủ nhất như thử, nãi năng thành đạo.» 或言老子入夷狄為浮屠,浮屠不三宿桑下,不欲久生恩愛精之至也.天神遺以好女,浮屠曰此但革囊盛血,遂不盼之.其守一如此,乃能成道. (Có người bảo rằng Lão Tử vào xứ của bọn rợ mà thành Phật. Phật không nghỉ đêm dưới cây dâu ba lần,[8] không muốn sinh lòng ân ái lâu dài, tinh chuyên một mực như vậy. Thiên thần tặng cho gái đẹp, Phật nói đó là túi da đầy máu nên không nhìn. Cứ gìn giữ một lòng như thế là có thể thành đạo).

Liệt Tiên Truyện 列仙傳 (xuất hiện từ thế kỷ II cn, nhưng thường bị gán nhầm do Lưu Hướng 劉向 sáng tác khoảng năm 77-76 tcn) ghi chép tiểu truyện của Quan Lệnh Doãn 關令尹 rằng sau khi nhận Đạo Đức Kinh từ Lão Tử, Doãn Hỉ tháp tùng Lão Tử sang Lưu Sa để hóa độ rợ Hồ (Ấn Độ): «Dữ Lão Tử câu du Lưu Sa Hóa Hồ.» 與老子俱遊流沙化胡 (Cùng với Lão Tử đi sang vùng sa mạc ‘Cát Trôi' để hóa độ rợ Hồ).[9]

Lời bình của Bùi Tùng Chi 裴松之 về bộ Tam Quốc Chí 三國志 (phần Ngụy Thư 魏書; xuất bản năm 429 cn) có chú dẫn Ngụy Lược 魏略- Tây Nhung Truyện 西戎傳 (do Ngư Hoạn 魚豢 soạn khoảng giữa thế kỷ III cn) cung cấp thêm cho ta về sự kiện Hóa Hồ này: «Phù Đồ sở tái dữ Trung Quốc Lão Tử Kinh tương xuất nhập, cái dĩ vi Lão Tử tây xuất quan, quá Tây Vực chi Thiên Trúc, giáo Hồ. Phù Đồ thuộc đệ tử biệt hiệu, hợp hữu nhị thập cửu.» 浮屠所載與中國老子經相出入蓋以為老子西出關過西域之天竺教胡浮屠屬弟子別號合有二十九. (Những gì ghi trong kinh Phật tương tự với [nội dung] Lão Tử Đạo Đức Kinh của Trung Quốc. Người ta cho rằng Lão Tử đi về hướng tây, ra khỏi ải quan, vượt qua nước Thiên Trúc ở Tây Vực, giáo Hóa rợ Hồ ...) Đoạn chót câu này, Zürcher bảo nên đọc là: «... Hóa Hồ vi Phù Đồ, thuộc đệ tử biệt hiệu, hợp hữu nhị thập cửu.» 化胡為浮屠屬弟子別號合有二十九 (... giáo Hóa rợ Hồ thành Phật, đó là biệt hiệu dành cho cả thảy 29 đệ tử). Theo trên, Phật Thích Ca cùng với 28 thiền tổ Ấn Độ [10] là 29 đệ tử của Lão Tử. Dựa trên cơ sở này, đạo sĩ Vương Phù 王浮 (tức Cơ Công Thứ 基公次) đời Tây Tấn (265-316) [11] soạn Lão Tử Hóa Hồ Kinh. Nhưng tác phẩm này ra đời do một động lực khác. Năm cuối triều vua Huệ Đế 惠帝 (tại vị 290-306) đời Tây Tấn, một danh tăng tên là Bạch Viễn 帛遠 (tự là Pháp Tổ 法祖) đã bác bỏ thuyết Lão Tử Hóa Hồ. Bạch Viễn và Vương Phù tranh luận nhau. Vương Phù thua bèn sáng tác quyển Lão Tử Hóa Hồ Kinh để bênh vực quan điểm của mình. Sự việc này được ghi chép trong vài tư liệu như:

1.Cao Tăng Truyện 高僧傳 của Huệ Kiểu 慧皎 (497-554) sáng tác khoảng năm 530 cn, chép rằng: «Sau khi Bạch Viễn mất không lâu, có người tên Lý Thông chết đi sống lại. Lý Thông nói đã gặp Pháp Tổ (tức Bạch Viễn) nơi âm phủ đang giảng kinh Śūramgama-samādhi (Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội 首楞嚴三昧) cho vua Yāma (Diêm Ma Vương 閻魔王) nghe... Đồng thời Lý Thông cũng thấy tên tế tửu [12] Vương Phù tức đạo sĩ Cơ Công Thứ mang gông cùm xiềng xích một mực van xin Pháp Tổ thương xót hắn. Trước đây, lúc sinh bình, Pháp Tổ đã luôn tranh luận với Vương Phù về chuyện chính tà. Vương Phù cãi thua Pháp Tổ, uất ức không nhịn được bèn sáng tác Lão Tử Hóa Hồ Kinh để hủy báng đạo Phật.»

2.Tấn Thế Tạp Lục 晉世雜錄 (khoảng đầu thế kỷ V cn) chép: «Đạo sĩ Vương Phù đã từng tranh luận với sa môn Bạch Viễn và cãi thua. Sau đó họ Vương mới cải biên Tây Vực Truyện 西域傳 thành Hóa Hồ Kinh, nói rằng Doãn Hỉ đi theo Lão Tử sang Tây Vực giáo hóa rợ Hồ và thành Phật. Đạo Phật bắt đầu từ đó.»

3.Cao Tăng Truyện 高僧傳 (cũng gọi Chúng Tăng Truyện 眾僧傳) của Bùi Tử Dã 裴子野 (467-528) chép rằng: «Dưới triều Tấn Huệ Đế, sa môn Bạch Viễn tự Pháp Tổ đã từng tranh luận với tên tế tửu Vương Phù (tức đạo sĩ Cơ Công Thứ) về vấn đề chính tà. Vương thua, uất ức mới phỏng theo Tây Vực Truyện mà sáng tác Hóa Hồ Kinh để hủy báng đạo Phật. Quyển sách này đã lưu truyền khắp nơi.»

4.U Minh Lục 幽明錄 của Lưu Nghĩa Khánh 劉義慶 (403-444) cũng viết như Cao Tăng Truyện của Huệ Kiểu, nhưng thêm chi tiết là Lý Thông quê ở Bồ Thành 蒲城 Thiểm Tây 陝西.[13]

Lão Tử Hóa Hồ Kinh chỉ có một quyển, người đời sau tăng bổ thành 10 quyển. Thông Chí 通志 - Nghệ Văn Lược 藝文略 ghi là 10 quyển, Quận Trai Độc Thư Chí 郡齋讀書志 (của Triều Công Vũ 晁公武) quyển 16, ghi là 10 quyển, Văn Hiến Thông Khảo 文獻通考 quyển 224 cũng ghi là có 10 quyển. Tất cả đều chú dẫn Tam Quốc Chí Chú 三國志注 (của Bùi Tùng Chi 裴松之), Tân Đường Thư 新唐書 - Nghệ Văn Chí 藝文志, v.v... nói về nguyên nhân phát sinh cố sự Hóa Hồ thành Phật và cuộc tranh luận về sự chân ngụy của Hóa Hồ Kinh. Bản Đôn Hoàng Lão Tử Hóa Hồ Kinh 10 quyển bị hư hoại, chỉ còn giữ được quyển 2, 8, và 10. Nội dung chủ yếu của Hóa Hồ Kinh là kể lại câu chuyện dẫn Quan Lệnh Doãn Hỉ đi sang hướng tây, vào nước Thiên Trúc (Ấn Độ), Hóa thành Phật Đà, lập ra Phù Đồ giáo (tức Phật giáo).

Lão Tử Hóa Hồ Kinh ra đời, làm nảy sinh một đại công án tôn giáo kéo dài gần 1000 năm. Bên Đạo giáo cố gắng chứng minh rằng Đạo giáo có trước Phật giáo, và Lão Tử hóa thành Phật rồi mở đạo Phật tại Ấn Độ. Họ sáng tác thêm một số tác phẩm để bênh vực quan điểm như: Huyền Diệu Nội Thiên 玄妙內篇, Xuất Tái Ký 出塞記, Quan Lệnh Doãn Hỉ Truyện 關令尹喜傳, Văn Thủy Nội Truyện 文始內傳, Lão Quân Thiên Khai Kinh 老君天開經, v.v... Bên Phật giáo ngoài việc chứng minh sự việc Hóa Hồ là hư ngụy, họ còn sáng tác những quyển như Chu Thư Dị Ký 周書異記, Hán Pháp Bản Nội Truyện 漢法本內傳, v.v. chứng minh rằng Phật Thích Ca là sư phụ của Khổng Tử và Lão Tử.[14] Đến đời Đường Cao Tông 唐高宗, và sau là thời Vũ Chu 武周 (thời Vũ Tắc Thiên 武則天 xưng đế, bà đổi quốc hiệu là Chu ), chư tăng xin triều đình cấm và hủy bỏ Hóa Hồ Kinh. Mặc dù bát đại học sĩ tâu rằng kinh này không có gì tà ngụy nhưng triều đình cũng hai lần hạ lệnh đốt bỏ (dưới triều Cao Tông và dưới triều Vũ Hậu). Nhưng bấy giờ mệnh lệnh không nghiêm, Hóa Hồ Kinh vẫn tiếp tục lưu hành. Đến đời Nguyên, dưới triều vua Hiến Tông 憲宗 (tại vị 1251-1260) và Thế Tổ 世祖 (tại vị 1260-1295), Toàn Chân đạo 全真道 xâm chiếm chùa miếu và điền sản của Phật giáo. Phật giáo lại đem Lão Tử Hóa Hồ Kinh ra tố cáo là ngụy kinh. Thêm một lần nữa Phật giáo và Đạo giáo lại tranh luận kịch liệt. Năm thứ 8 (tức 1259) vua Hiến Tông và năm Chí Nguyên 至元 18 (tức 1282) vua Thế Tổ, Toàn Chân đạo hai lần biện luận đại bại, và triều đình nhà Nguyên hai lần hạ lệnh đốt bỏ đạo kinh. Lão Tử Hóa Hồ Kinh từ đó bị đốt mất. Chính Thống Đạo Tạng 正統道藏 Vạn Lịch Tục Đạo Tạng 萬歷續道藏 đời Minh đều không ghi chép Hóa Hồ Kinh.[15]

Lão Tử Hóa Hồ Kinh mang nội dung hư cấu về hành trạng Lão Tử sau khi để lại cho Doãn Hỉ bộ Đạo Đức Kinh. Điều mà con người hiện nay quan tâm không phải là nội dung Hóa Hồ Kinh mà chính là ôn lại một cuộc đại tranh luận non 1000 năm giữa Phật giáo và Đạo giáo trong lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc kể từ khi du nhập, tức là từ thời Lưỡng Hán cho đến nay.

LÊ ANH MINH

Xem tiếp: Lão Tử Tây Thăng Kinh - Lê Anh Minh phiên dịch & chú giải

CHÚ THÍCH

[1]  Livia Kohn, Taoist Mystical Philosophy: The Scripture of Western Ascension, State University of New York Press, 1991, tr. 4.

[2]  Khanh Hy Thái 卿希泰 chủ biên, Trung Quốc Đạo Giáo 中國道教, Thượng Hải, 1996, quyển 2, tr. 66.

[3]  Livia Kohn, sđd., tr. 23. Fujiwara Takao (Đằng Nguyên Cao Nam 藤原高男), Tây Thăng Kinh Lý Vinh chú 西昇經李榮注 (Saishōkyō ri ei chū), Hương Xuyên Đại Học Nhất Ban Giáo Dục Nghiên Cứu 香川大學一般教育研究 (Kagawa daigaku kokubun kenkyū), 1983.

[4]  Livia Kohn, sđd., tr. 323.

[5]  Livia Kohn dịch sang tiếng Anh, sđd., tr. 62-64.

[6]  Livia Kohn ghi là Hoài Khải 欀楷 (sđd., tr. 65), Khanh Hy Thái (sđd, quyển 2, tr. 64) và Zürcher (The Buddhist Conquest of China, Taiwan, 1970, tr. 291) ghi là Tương Khải 襄楷.

[7]  Chữ Buddha (Phật) được phiên sang Hán âm bằng nhiều chữ như: Phật Đà 佛陀, Phù Đà 浮陀, Phù Đồ 浮圖 (hoặc 浮屠), Phù Đầu 浮頭, Bột Đà 勃陀 (hoặc 浮馱), Bộ Đa 部多, Bộ Đà 部陀, Vô Đà 毋陀 hoặc 毋馱, Một Đà 沒馱 (hoặc 沒陀), Phật Đà 佛陀, Bộ Tha 步他, Phục Đậu 复豆, Phật Đồ 佛圖, Phật , Bộ Đà 步陀, Vật tha 物他, v.v. Xem bài «Phù Đồ dữ Phật» 浮屠與佛 (Phù Đồ và Phật) in trong tập tiểu luận Trung Ấn Văn Hóa Quan Hệ Sử Luận Tùng 中印文化關係史論叢 (Luận về mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc và Ấn Độ) của Quí Tiện Lâm 季羨林 (Bắc Kinh, 1957, tr. 9).

[8]  Tại sao gọi là nghỉ đêm dưới cây dâu? Có lẽ đây là sự hiểu nhầm từ chữ tang môn 桑門. Nó không có nghĩa là nhà dâu để rồi bị suy diễn là nghỉ đêm dưới cây dâu. Thời Hán đã có thuật ngữ này, đồng nghĩa với sa môn 沙門. Cả hai đều là phiên âm từ tiếng Phạn: Śramaņa. Ngữ căn Śram có nghĩa là nỗ lực. Śramaņa còn phiên âm là bà môn 婆門, tang môn 喪門, sa môn na 沙門那, xá la ma nã 舍羅摩拿, thất ma ná nã 室摩那拿. Thuật ngữ này chỉ bậc xuất gia tu đạo.

[9]   E. Zürcher, The Buddhist Conquest of China, Taiwan, 1970, tr. 291.
Trong kinh cúng tứ thời của Cao Đài giáo (bài
Tiên giáo 仙教) có câu «Tử khí đông lai, quảng truyền đạo đức; lưu sa tây độ, pháp hóa tướng tông» 紫氣東來廣傳道德流沙西度法化相宗 có lẽ bắt nguồn từ thuyết «du Lưu Sa Hóa Hồ» 遊流沙化胡 này.

[10] Tây thiên nhị thập bát tổ 西天二十八祖 (saiten-nijūhasso): 1. Ma-ha-ca-diếp (diệp) 摩訶迦葉 (Mahākā-śyapa), 2. A-nan 阿難 (Ānanda), 3. Thương-na-hoà-tu 商那和修 (Śāņakavāsa), 4. Ưu-bà-cấp-đa 優婆笈多 (Upagupta), 5. Đề-đa-ca (già) 提多迦 (Dhrtaka), 6. Di-ca (già)-ca 彌遮迦 (Mikkaka), 7. Bà-tu-mật 婆須蜜 (Vasumitra), 8. Phật-đà-nan-đề 佛陀難提 (Buddhanandi), 9. Phục-đà-mật-đa 伏馱密多 (Buddhamitra), 10. Hiếp-tôn-giả 脅尊者 (Pārśvika), 11. Phú-na-da-xá 富那耶舍 (Puņyayaśas), 12. Mã-minh-đại-sĩ 馬鳴大士 (Aśvaghosa), 13. Ca-bì-ma-la 迦毗摩羅 (Kapimala), 14. Long Thụ 龍樹 (Nāgārjuna), 15. Ca-na-đề-bà 迦那提婆 (Kãnïadeva), 16. La-hầu-la-đa 羅候羅多 (Rāhūlata), 17. Tăng-già-nan-đề 僧迦難提 (Sanghanan-di), 18. Già-da-xá-đa 迦耶舍多 (Gayāśata), 19. Cưu-ma-la-đa 鳩摩羅多 (Kumārata), 20. Đồ-dạ-đa 闍夜多 (Yajata), 21. Bà-tu-bàn-đầu 婆修盤頭 (Vasubandhu), 22. Ma-nã-la 摩拿羅 (Manorhita), 23. Hạc-lặc-na 鶴勒那 (Haklena), 24. Sư-tử-tôn-giả 獅子尊者 (Āryasimha), 25. Bà-xá-tư-đa 婆舍斯多 (Basiasita), 26. Bất-như-mật-đa 不如密多 (Puņyamitra), 27. Bát-nhã-đa-la 般若多羅 (Prajñātāra), 28. Bồ-đề-đạt-ma 菩提達磨 (Bodhidharma). Trích dẫn: Trung Anh Phật Học Từ Điển 中英佛學辭典, Đài Bắc, 1962, tr. 22; và Nhật Anh Phật Giáo Từ Điển 日英佛教辭典 (mục từ saiten-nijūhasso), Tōkyō, 1965, tr. 247.

[11] Zürcher cho rằng Vương Phù viết quyển này vào đầu thế kỷ V công nguyên (sđd., tr. 293).
Khanh Hy Thái chép Vương Phù sống vào đời Tây Tấn (sđd., quyển 2, tr. 64).
Vương Hữu Tam cũng chép Vương Phù sống vào đời Tây Tấn: «Nói chung Phật giáo du nhập vào Trung Quốc khoảng thời Lưỡng Hán. [...] Năm du nhập chính xác là bao nhiêu thì lịch sử còn phân vân. Không ít tín đồ Phật giáo đời sau đã cùng nhau xuyên tạc [thời gian du nhập] nên không đủ tin cậy. Đặc biệt là Phật giáo và Đạo giáo đời Ngụy Tấn đã tranh nhau cao thấp nên rất nhiều tín đồ đã đưa ra nhiều giả thuyết tranh giành thời gian xuất hiện trước sau. Đạo sĩ đời Tây Tấn là Vương Phù từng ngụy tạo Lão Tử Hóa Hồ Kinh, nói Lão Tử đi sang Lưu Sa hướng tây, vào Thiên Trúc thành Phật, giáo hóa Hồ nhân, Thích Ca Mâu Ni là đệ tử của Lão Tử. Tín đồ Phật giáo cũng công kích lại, đưa ra nhiều thuyết, cho rằng Phật giáo có trước Đạo giáo, du nhập vào Trung Quốc rất sớm.» (Vương Hữu Tam
王友三, Trung Quốc Tôn Giáo Sử 中國宗教史, quyển I, Tề Lỗ xuất bản xã 齊魯出版社, Tế Nam 濟南, 1991, tr. 353)

[12] Tế tửu 祭酒: Đạo sĩ có nhiệm vụ rót rượu tế lễ. Từ Hải giảng: «Tế tửu là nghi lễ cổ, trong yến tiệc lớn thì vị khách có tuổi tác cao sẽ rót rượu dâng cúng. Từ đó tế tửu là danh xưng tôn kính, ý nói một vị tuổi cao hơn và phẩm hạnh trội hơn những người khác trong nhóm. Về sau, tế tửu là tên một chức quan. Như quan thị trung 侍中 (đời Hán) và quan tản kỵ thường thị 散騎常侍 (đời Ngụy) nếu có công trạng lớn thì được thăng làm quan tế tửu. Ngoài ra, trong các quan bác sĩ đời Hán, vị nào thông minh uy trọng thì được cử làm tế tửu. Từ đời Ngụy về sau có chức quan Quốc tử tế tửu 國子祭酒. Đến cuối đời Thanh thì chức quan này mới bị bỏ đi.» (Sđd., tr. 928, mục từ Tế tửu).
Charles O. Hucker (A Dictionary of Official Titles in Imperial China, Taipei, 1995, trang 130), dịch chức tế tửu là «Libationer» và giảng đại khái: đời Hán đó là chức danh tôn quý giành cho các lão quan ưu tú. Ngoài ra, cũng có thể dịch chức này là «Chancellor»: Từ đời Hán đến đời Thanh, đó là chức quan cao nhất, phụ trách về giáo dục nơi Nhà Thái Học
太學 (từ đời Tùy gọi là Quốc Tử Giám 國子監). Chức danh này bắt nguồn từ chức Bác Sĩ nơi nhà Thái Học đời Tiền Hán. Đời Thanh có hai người được bổ nhiệm làm tế tửu: một là người Hán, một là người Mãn. Thường gọi là Quốc Tử Tế Tửu 國子祭酒.
Theo Trương Chí Triết, trong hệ thống cấp bậc của Đạo giáo, cuối đời Hán, Ngũ Đấu Mễ Đạo
五斗米道 hưng thịnh, Trương Lỗ 張魯 tự xưng là Sư Quân 師君. Kẻ mới nhập đạo gọi là Quỷ tốt 鬼卒; đạo đồ cốt cán gọi là Tế tửu. Về sau tín đồ gia tăng, có chức Đại tế tửu 大祭酒 là chức đứng đầu một Trị . Trị là một đạo trường hay giáo xứ, coi như một đơn vị hành chánh của Ngũ Đấu Mễ Đạo; mục đích mỗi trị trước là trấn giữ nhân tâm, sau là lập đài quan sát tinh tú. Lúc đầu có 24 trị, sau tăng lên thành 48 trị, lấy Dương Bình trị 陽平治 làm trung tâm. (Xem: Trương Chí Triết 張志哲, Đạo giáo văn hóa từ điển 道教文化辭典, Giang Tô Cổ Tịch xbx, 1994, tr. 860, 881).

[13] Zürcher, sđd., tr. 294.

[14] Khanh Hy Thái, sđd., quyển 2, tr. 64.

[15] Khanh Hy Thái, sđd., quyển 2, tr. 65.

 

Hanosoft R & D

Chú thích về font Arial Unicode MS

Cùng một tác giả Lê Anh Minh

Thiên-Lý Bửu-Tòa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh