Trở lại trang chánh của Website Thiên Lý Bửu Tòa
|
LÃO TỬ với TÂY THĂNG KINH và HÓA HỒ KINH
Hành trạng của Lão Tử sau khi rời đất Chu được ghi chép trong Tây Thăng Kinh 西昇經. Tây Thăng Kinh diễn giải yếu nghĩa của Đạo Đức Kinh. Tác phẩm này được đưa vào Động Thần bộ 洞神部 của Chính Thống Đạo Tạng 正統道藏. Tác giả và thời gian hình thành tác phẩm chưa rõ. Livia Kohn cho rằng Tây Thăng Kinh xuất hiện khoảng thế kỷ V cn nhưng không biết cụ thể niên đại và tác giả.[1]
Ấn Độ ngày xưa cũng gọi là Thiên Trúc 天竺, Tây Trúc 西竺, trong Tây Thăng Kinh gọi là Trúc Càn 竺乾. Chữ kiến khí 見氣 trong chương này ứng với câu rất nổi tiếng tử khí đông lai 紫氣東來 (làn khí đỏ tía từ hướng đông bay tới). Rõ ràng «tây thăng» là bay về hướng tây, tức là sang Ấn Độ. Câu chuyện trên rất gần với những gì chép trong Thần Tiên Truyện 神仙傳 của Cát Hồng (khoảng đầu thế kỷ IV cn). Nhưng Cát Hồng 葛洪 ghi chép nhiều chi tiết ly kỳ ở Hàm Cốc quan 函谷關 thuộc núi Chung Nam 鐘南: «Lão Tử thuê một tiểu đồng tên Từ Giáp 徐甲 phục vụ với giá 100 tiền một ngày. Đến nay đã nợ Từ Giáp bảy triệu hai. Khi thấy Lão Tử sắp rời bỏ Trung Quốc, Từ Giáp bèn đòi tiền. Lão Tử không chịu trả. Một tên tôi tớ nơi Hàm Cốc quan biết chuyện bèn xúi Từ Giáp đi kiện nơi quan lệnh (Doãn Hỉ), nhưng hắn không biết rằng Từ Giáp theo hầu Lão Tử được trên 200 năm rồi. Hắn chỉ biết Từ Giáp sẽ có một món tiền lớn nên ngỏ ý gả con gái cho Từ Giáp. Thấy ả ta xinh gái, Từ Giáp rất bằng lòng. Họ rủ nhau đến gặp quan lệnh Doãn Hỉ. Ngài cực kỳ kinh ngạc. Bấy giờ Lão Tử nói với Từ Giáp rằng: ‘Mi lẽ ra đã chết từ lâu. Lần đầu gặp và thuê mi, mi là tên nô lệ nghèo mạt. Nhưng vì ta không có tiểu đồng nên mới thuê mi và cho mi sống lâu nhờ Thái Huyền thanh mệnh phù. Vì thế mà mi mới thấy ngày nay. Mi còn than phiền nỗi gì? Ta đã bảo khi nào đến Côn Lôn sẽ trả vàng cho mi, sao mi không chờ nổi?’ Lão Tử buộc Từ Giáp há mồm và bảo mọi người nhìn xuống mặt đất. Chiếc phù phóng ra khỏi miệng Từ Giáp, cắm thẳng xuống đất, trên đó có chữ đan 丹 đọc còn rõ. Ngay tức khắc Từ Giáp biến thành bộ xương. Quan lệnh từ bi, xin Lão Tử cứu Từ Giáp sống lại. Từ Giáp sống lại, Lão Tử trả tiền công và đuổi hắn đi. Từ đó Doãn Hỉ rất sùng bái Lão Tử và xin ngài truyền bí thuật trường sinh. Lão Tử truyền lại Đạo Đức Kinh, Doãn Hỉ theo đó mà tu luyện thành tiên.» [5] Thần Tiên Truyện cho rằng Lão Tử đi về núi Côn Lôn và Tây Thăng Kinh cho rằng Lão Tử bay về hướng tây truyền đạo ở Ấn Độ (Hóa Hồ). Thuyết Lão Tử Hóa Hồ (the conversion of the barbarians) thực sự bắt đầu xuất hiện từ đời Đông Hán thời vua Hoàn Đế 桓帝. Bấy giờ quan thượng thư Tương Khải 襄楷 [6] (năm 116 cn) trình tấu với Hán Hoàn Đế rằng: «Hoặc ngôn Lão Tử nhập di địch vi Phù Đồ,[7] Phù Đồ bất tam túc tang hạ, bất dục cửu sinh ân ái, tinh chi chí dã. Thiên thần di dĩ hảo nữ, Phù Đồ viết: Thử đản cách nang thịnh huyết, toại bất phán chi. Kỳ thủ nhất như thử, nãi năng thành đạo.» 或言老子入夷狄為浮屠,浮屠不三宿桑下,不欲久生恩愛精之至也.天神遺以好女,浮屠曰此但革囊盛血,遂不盼之.其守一如此,乃能成道. (Có người bảo rằng Lão Tử vào xứ của bọn rợ mà thành Phật. Phật không nghỉ đêm dưới cây dâu ba lần,[8] không muốn sinh lòng ân ái lâu dài, tinh chuyên một mực như vậy. Thiên thần tặng cho gái đẹp, Phật nói đó là túi da đầy máu nên không nhìn. Cứ gìn giữ một lòng như thế là có thể thành đạo). Liệt Tiên Truyện 列仙傳 (xuất hiện từ thế kỷ II cn, nhưng thường bị gán nhầm do Lưu Hướng 劉向 sáng tác khoảng năm 77-76 tcn) ghi chép tiểu truyện của Quan Lệnh Doãn 關令尹 rằng sau khi nhận Đạo Đức Kinh từ Lão Tử, Doãn Hỉ tháp tùng Lão Tử sang Lưu Sa để hóa độ rợ Hồ (Ấn Độ): «Dữ Lão Tử câu du Lưu Sa Hóa Hồ.» 與老子俱遊流沙化胡 (Cùng với Lão Tử đi sang vùng sa mạc ‘Cát Trôi' để hóa độ rợ Hồ).[9] Lời bình của Bùi Tùng Chi 裴松之 về bộ Tam Quốc Chí 三國志 (phần Ngụy Thư 魏書; xuất bản năm 429 cn) có chú dẫn Ngụy Lược 魏略- Tây Nhung Truyện 西戎傳 (do Ngư Hoạn 魚豢 soạn khoảng giữa thế kỷ III cn) cung cấp thêm cho ta về sự kiện Hóa Hồ này: «Phù Đồ sở tái dữ Trung Quốc Lão Tử Kinh tương xuất nhập, cái dĩ vi Lão Tử tây xuất quan, quá Tây Vực chi Thiên Trúc, giáo Hồ. Phù Đồ thuộc đệ tử biệt hiệu, hợp hữu nhị thập cửu.» 浮屠所載與中國老子經相出入蓋以為老子西出關過西域之天竺教胡浮屠屬弟子別號合有二十九. (Những gì ghi trong kinh Phật tương tự với [nội dung] Lão Tử Đạo Đức Kinh của Trung Quốc. Người ta cho rằng Lão Tử đi về hướng tây, ra khỏi ải quan, vượt qua nước Thiên Trúc ở Tây Vực, giáo Hóa rợ Hồ ...) Đoạn chót câu này, Zürcher bảo nên đọc là: «... Hóa Hồ vi Phù Đồ, thuộc đệ tử biệt hiệu, hợp hữu nhị thập cửu.» 化胡為浮屠屬弟子別號合有二十九 (... giáo Hóa rợ Hồ thành Phật, đó là biệt hiệu dành cho cả thảy 29 đệ tử). Theo trên, Phật Thích Ca cùng với 28 thiền tổ Ấn Độ [10] là 29 đệ tử của Lão Tử. Dựa trên cơ sở này, đạo sĩ Vương Phù 王浮 (tức Cơ Công Thứ 基公次) đời Tây Tấn (265-316) [11] soạn Lão Tử Hóa Hồ Kinh. Nhưng tác phẩm này ra đời do một động lực khác. Năm cuối triều vua Huệ Đế 惠帝 (tại vị 290-306) đời Tây Tấn, một danh tăng tên là Bạch Viễn 帛遠 (tự là Pháp Tổ 法祖) đã bác bỏ thuyết Lão Tử Hóa Hồ. Bạch Viễn và Vương Phù tranh luận nhau. Vương Phù thua bèn sáng tác quyển Lão Tử Hóa Hồ Kinh để bênh vực quan điểm của mình. Sự việc này được ghi chép trong vài tư liệu như: 1.Cao Tăng Truyện 高僧傳 của Huệ Kiểu 慧皎 (497-554) sáng tác khoảng năm 530 cn, chép rằng: «Sau khi Bạch Viễn mất không lâu, có người tên Lý Thông chết đi sống lại. Lý Thông nói đã gặp Pháp Tổ (tức Bạch Viễn) nơi âm phủ đang giảng kinh Śūramgama-samādhi (Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội 首楞嚴三昧) cho vua Yāma (Diêm Ma Vương 閻魔王) nghe... Đồng thời Lý Thông cũng thấy tên tế tửu [12] Vương Phù tức đạo sĩ Cơ Công Thứ mang gông cùm xiềng xích một mực van xin Pháp Tổ thương xót hắn. Trước đây, lúc sinh bình, Pháp Tổ đã luôn tranh luận với Vương Phù về chuyện chính tà. Vương Phù cãi thua Pháp Tổ, uất ức không nhịn được bèn sáng tác Lão Tử Hóa Hồ Kinh để hủy báng đạo Phật.» 2.Tấn Thế Tạp Lục 晉世雜錄 (khoảng đầu thế kỷ V cn) chép: «Đạo sĩ Vương Phù đã từng tranh luận với sa môn Bạch Viễn và cãi thua. Sau đó họ Vương mới cải biên Tây Vực Truyện 西域傳 thành Hóa Hồ Kinh, nói rằng Doãn Hỉ đi theo Lão Tử sang Tây Vực giáo hóa rợ Hồ và thành Phật. Đạo Phật bắt đầu từ đó.» 3.Cao Tăng Truyện 高僧傳 (cũng gọi Chúng Tăng Truyện 眾僧傳) của Bùi Tử Dã 裴子野 (467-528) chép rằng: «Dưới triều Tấn Huệ Đế, sa môn Bạch Viễn tự Pháp Tổ đã từng tranh luận với tên tế tửu Vương Phù (tức đạo sĩ Cơ Công Thứ) về vấn đề chính tà. Vương thua, uất ức mới phỏng theo Tây Vực Truyện mà sáng tác Hóa Hồ Kinh để hủy báng đạo Phật. Quyển sách này đã lưu truyền khắp nơi.» 4.U Minh Lục 幽明錄 của Lưu Nghĩa Khánh 劉義慶 (403-444) cũng viết như Cao Tăng Truyện của Huệ Kiểu, nhưng thêm chi tiết là Lý Thông quê ở Bồ Thành 蒲城 Thiểm Tây 陝西.[13] Lão Tử Hóa Hồ Kinh chỉ có một quyển, người đời sau tăng bổ thành 10 quyển. Thông Chí 通志 - Nghệ Văn Lược 藝文略 ghi là 10 quyển, Quận Trai Độc Thư Chí 郡齋讀書志 (của Triều Công Vũ 晁公武) quyển 16, ghi là 10 quyển, Văn Hiến Thông Khảo 文獻通考 quyển 224 cũng ghi là có 10 quyển. Tất cả đều chú dẫn Tam Quốc Chí Chú 三國志注 (của Bùi Tùng Chi 裴松之), Tân Đường Thư 新唐書 - Nghệ Văn Chí 藝文志, v.v... nói về nguyên nhân phát sinh cố sự Hóa Hồ thành Phật và cuộc tranh luận về sự chân ngụy của Hóa Hồ Kinh. Bản Đôn Hoàng Lão Tử Hóa Hồ Kinh 10 quyển bị hư hoại, chỉ còn giữ được quyển 2, 8, và 10. Nội dung chủ yếu của Hóa Hồ Kinh là kể lại câu chuyện dẫn Quan Lệnh Doãn Hỉ đi sang hướng tây, vào nước Thiên Trúc (Ấn Độ), Hóa thành Phật Đà, lập ra Phù Đồ giáo (tức Phật giáo). Lão Tử Hóa Hồ Kinh ra đời, làm nảy sinh một đại công án tôn giáo kéo dài gần 1000 năm. Bên Đạo giáo cố gắng chứng minh rằng Đạo giáo có trước Phật giáo, và Lão Tử hóa thành Phật rồi mở đạo Phật tại Ấn Độ. Họ sáng tác thêm một số tác phẩm để bênh vực quan điểm như: Huyền Diệu Nội Thiên 玄妙內篇, Xuất Tái Ký 出塞記, Quan Lệnh Doãn Hỉ Truyện 關令尹喜傳, Văn Thủy Nội Truyện 文始內傳, Lão Quân Thiên Khai Kinh 老君天開經, v.v... Bên Phật giáo ngoài việc chứng minh sự việc Hóa Hồ là hư ngụy, họ còn sáng tác những quyển như Chu Thư Dị Ký 周書異記, Hán Pháp Bản Nội Truyện 漢法本內傳, v.v. chứng minh rằng Phật Thích Ca là sư phụ của Khổng Tử và Lão Tử.[14] Đến đời Đường Cao Tông 唐高宗, và sau là thời Vũ Chu 武周 (thời Vũ Tắc Thiên 武則天 xưng đế, bà đổi quốc hiệu là Chu 周), chư tăng xin triều đình cấm và hủy bỏ Hóa Hồ Kinh. Mặc dù bát đại học sĩ tâu rằng kinh này không có gì tà ngụy nhưng triều đình cũng hai lần hạ lệnh đốt bỏ (dưới triều Cao Tông và dưới triều Vũ Hậu). Nhưng bấy giờ mệnh lệnh không nghiêm, Hóa Hồ Kinh vẫn tiếp tục lưu hành. Đến đời Nguyên, dưới triều vua Hiến Tông 憲宗 (tại vị 1251-1260) và Thế Tổ 世祖 (tại vị 1260-1295), Toàn Chân đạo 全真道 xâm chiếm chùa miếu và điền sản của Phật giáo. Phật giáo lại đem Lão Tử Hóa Hồ Kinh ra tố cáo là ngụy kinh. Thêm một lần nữa Phật giáo và Đạo giáo lại tranh luận kịch liệt. Năm thứ 8 (tức 1259) vua Hiến Tông và năm Chí Nguyên 至元 18 (tức 1282) vua Thế Tổ, Toàn Chân đạo hai lần biện luận đại bại, và triều đình nhà Nguyên hai lần hạ lệnh đốt bỏ đạo kinh. Lão Tử Hóa Hồ Kinh từ đó bị đốt mất. Chính Thống Đạo Tạng 正統道藏 và Vạn Lịch Tục Đạo Tạng 萬歷續道藏 đời Minh đều không ghi chép Hóa Hồ Kinh.[15] Lão Tử Hóa Hồ Kinh mang nội dung hư cấu về hành trạng Lão Tử sau khi để lại cho Doãn Hỉ bộ Đạo Đức Kinh. Điều mà con người hiện nay quan tâm không phải là nội dung Hóa Hồ Kinh mà chính là ôn lại một cuộc đại tranh luận non 1000 năm giữa Phật giáo và Đạo giáo trong lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc kể từ khi du nhập, tức là từ thời Lưỡng Hán cho đến nay.● LÊ ANH MINH ● Xem tiếp: Lão Tử Tây Thăng Kinh - Lê Anh Minh phiên dịch & chú giải CHÚ THÍCH [1] Livia Kohn, Taoist Mystical Philosophy: The Scripture of Western Ascension, State University of New York Press, 1991, tr. 4. [2] Khanh Hy Thái 卿希泰 chủ biên, Trung Quốc Đạo Giáo 中國道教, Thượng Hải, 1996, quyển 2, tr. 66. [3] Livia Kohn, sđd., tr. 23. Fujiwara Takao (Đằng Nguyên Cao Nam 藤原高男), Tây Thăng Kinh Lý Vinh chú 西昇經李榮注 (Saishōkyō ri ei chū), Hương Xuyên Đại Học Nhất Ban Giáo Dục Nghiên Cứu 香川大學一般教育研究 (Kagawa daigaku kokubun kenkyū), 1983. [4] Livia Kohn, sđd., tr. 323. [5] Livia Kohn dịch sang tiếng Anh, sđd., tr. 62-64. [6] Livia Kohn ghi là Hoài Khải 欀楷 (sđd., tr. 65), Khanh Hy Thái (sđd, quyển 2, tr. 64) và Zürcher (The Buddhist Conquest of China, Taiwan, 1970, tr. 291) ghi là Tương Khải 襄楷. [7] Chữ Buddha (Phật) được phiên sang Hán âm bằng nhiều chữ như: Phật Đà 佛陀, Phù Đà 浮陀, Phù Đồ 浮圖 (hoặc 浮屠), Phù Đầu 浮頭, Bột Đà 勃陀 (hoặc 浮馱), Bộ Đa 部多, Bộ Đà 部陀, Vô Đà 毋陀 hoặc 毋馱, Một Đà 沒馱 (hoặc 沒陀), Phật Đà 佛陀, Bộ Tha 步他, Phục Đậu 复豆, Phật Đồ 佛圖, Phật 佛, Bộ Đà 步陀, Vật tha 物他, v.v. Xem bài «Phù Đồ dữ Phật» 浮屠與佛 (Phù Đồ và Phật) in trong tập tiểu luận Trung Ấn Văn Hóa Quan Hệ Sử Luận Tùng 中印文化關係史論叢 (Luận về mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc và Ấn Độ) của Quí Tiện Lâm 季羨林 (Bắc Kinh, 1957, tr. 9). [8] Tại sao gọi là nghỉ đêm dưới cây dâu? Có lẽ đây là sự hiểu nhầm từ chữ tang môn 桑門. Nó không có nghĩa là nhà dâu để rồi bị suy diễn là nghỉ đêm dưới cây dâu. Thời Hán đã có thuật ngữ này, đồng nghĩa với sa môn 沙門. Cả hai đều là phiên âm từ tiếng Phạn: Śramaņa. Ngữ căn Śram có nghĩa là nỗ lực. Śramaņa còn phiên âm là bà môn 婆門, tang môn 喪門, sa môn na 沙門那, xá la ma nã 舍羅摩拿, thất ma ná nã 室摩那拿. Thuật ngữ này chỉ bậc xuất gia tu đạo.
[9]
E. Zürcher,
The Buddhist
Conquest of
China,
Taiwan, 1970,
tr. 291. [10] Tây thiên nhị thập bát tổ 西天二十八祖 (saiten-nijūhasso): 1. Ma-ha-ca-diếp (diệp) 摩訶迦葉 (Mahākā-śyapa), 2. A-nan 阿難 (Ānanda), 3. Thương-na-hoà-tu 商那和修 (Śāņakavāsa), 4. Ưu-bà-cấp-đa 優婆笈多 (Upagupta), 5. Đề-đa-ca (già) 提多迦 (Dhrtaka), 6. Di-ca (già)-ca 彌遮迦 (Mikkaka), 7. Bà-tu-mật 婆須蜜 (Vasumitra), 8. Phật-đà-nan-đề 佛陀難提 (Buddhanandi), 9. Phục-đà-mật-đa 伏馱密多 (Buddhamitra), 10. Hiếp-tôn-giả 脅尊者 (Pārśvika), 11. Phú-na-da-xá 富那耶舍 (Puņyayaśas), 12. Mã-minh-đại-sĩ 馬鳴大士 (Aśvaghosa), 13. Ca-bì-ma-la 迦毗摩羅 (Kapimala), 14. Long Thụ 龍樹 (Nāgārjuna), 15. Ca-na-đề-bà 迦那提婆 (Kãnïadeva), 16. La-hầu-la-đa 羅候羅多 (Rāhūlata), 17. Tăng-già-nan-đề 僧迦難提 (Sanghanan-di), 18. Già-da-xá-đa 迦耶舍多 (Gayāśata), 19. Cưu-ma-la-đa 鳩摩羅多 (Kumārata), 20. Đồ-dạ-đa 闍夜多 (Yajata), 21. Bà-tu-bàn-đầu 婆修盤頭 (Vasubandhu), 22. Ma-nã-la 摩拿羅 (Manorhita), 23. Hạc-lặc-na 鶴勒那 (Haklena), 24. Sư-tử-tôn-giả 獅子尊者 (Āryasimha), 25. Bà-xá-tư-đa 婆舍斯多 (Basiasita), 26. Bất-như-mật-đa 不如密多 (Puņyamitra), 27. Bát-nhã-đa-la 般若多羅 (Prajñātāra), 28. Bồ-đề-đạt-ma 菩提達磨 (Bodhidharma). Trích dẫn: Trung Anh Phật Học Từ Điển 中英佛學辭典, Đài Bắc, 1962, tr. 22; và Nhật Anh Phật Giáo Từ Điển 日英佛教辭典 (mục từ saiten-nijūhasso), Tōkyō, 1965, tr. 247.
[11]
Zürcher
cho rằng Vương
Phù viết quyển
này vào đầu thế
kỷ V công nguyên
(sđd.,
tr. 293).
[12]
Tế tửu
祭酒:
Đạo sĩ có nhiệm
vụ rót rượu tế
lễ. Từ Hải
giảng: «Tế
tửu là nghi
lễ cổ, trong yến
tiệc lớn thì vị
khách có tuổi
tác cao sẽ rót
rượu dâng cúng.
Từ đó tế tửu
là danh xưng tôn
kính, ý nói một
vị tuổi cao hơn
và phẩm hạnh
trội hơn những
người khác trong
nhóm. Về sau,
tế tửu là
tên một chức
quan. Như quan
thị trung
侍中
(đời Hán) và
quan tản kỵ
thường thị
散騎常侍
(đời Ngụy) nếu
có công trạng
lớn thì được
thăng làm quan
tế tửu. Ngoài
ra, trong các
quan bác sĩ đời
Hán, vị nào
thông minh uy
trọng thì được
cử làm tế tửu.
Từ đời Ngụy về
sau có chức quan
Quốc tử tế
tửu
國子祭酒.
Đến cuối đời
Thanh thì chức
quan này mới bị
bỏ đi.» (Sđd.,
tr. 928, mục từ
Tế tửu). [13] Zürcher, sđd., tr. 294. [14] Khanh Hy Thái, sđd., quyển 2, tr. 64. [15] Khanh Hy Thái, sđd., quyển 2, tr. 65.
Hanosoft R & D Chú thích về font Arial Unicode MS
|
Thiên-Lý Bửu-Tòa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|