Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
Chương
I KHÁI LƯỢC VỀ NHO GIÁO VIỆT NAM LÊ ANH DŨNG Nho
giáo vào Việt Nam trong thời Bắc thuộc, qua ba
thời kỳ như sau: –
111 tcn-39: các đời Tây Hán và Đông Hán. –
43-544: các đời Đông Hán, Tam Quốc, Tấn, Nam
Bắc Triều. – 603-939: các đời
Tùy, Đường, Ngũ Quư. Mười
thế kỷ đầu công nguyên, Nho học Việt Nam chưa
thịnh, chưa h́nh thành tầng lớp Nho sĩ nắm
vai tṛ quan trọng trong xă hội. Thành phần trí thức
ưu tú bấy giờ là những nhà tu, đặc
biệt là các cao tăng. Thông qua việc học chữ Nho
để đọc kinh Phật, các sư tiếp thu luôn
Nho học. Thế nên, khi đất nước vừa
độc lập, kể từ Ngô (939-965), Đinh (968-979),
Lê (980-1009), trí thức tài đức ra giúp triều đ́nh
là các đạo sĩ và thiền sư. Một số
thiền sư có công dạy các tục gia đệ
tử trở thành nhân tài giúp nước, như sư Khánh
Vân và sư Vạn Hạnh lần lượt là thầy
dạy Lư Công Uẩn; sư Trí ở núi Cao Dă là thầy
của Thái úy Tô Hiến Thành, Thái bảo Ngô Ḥa Nghĩa... Nho
học Việt Nam phát triển từ thế kỷ XI, sang
đời Nguyễn th́ suy. Nho học mở đường
xuất thân cho kẻ sĩ thông qua khoa cử;[1] nhờ
đó thúc đẩy văn học phát triển, văn hóa
được nâng cao. Không ít tiên Nho Việt Nam là tác
gia, đi sâu vào triết Nho. Nhưng chiến tranh liên miên,
sách vở bị cướp, đốt mất quá
nhiều, tư tưởng học thuật của tiên Nho
Việt Nam hầu như không c̣n lưu lại ǵ cho đời
sau nghiên cứu. Nên nói đến Nho giáo Việt Nam, cái
nổi bật h́nh như không phải là tư tưởng
triết học, mà lại là văn chương, khoa
cử, và vai tṛ chính trị của sĩ phu trong lịch
sử. 1. NHO HỌC VIỆT NAM QUA CÁC TRIỀU ĐẠI a. Đời Lư
(1010-1225) Nho
học mới hưng phát. Vua Lư Thánh tông cho lập Văn
miếu, làm tượng thờ Chu công, Khổng tử,
bảy mươi hai tiên hiền (1070).[2]
Vua Lư Nhân tông mở khoa thi đầu tiên tên là Tam
trường (1075), Lê Văn Thịnh đậu thủ
khoa; mở Quốc tử giám (1076); lập Hàn lâm viện
(1086), tuyển Mạc Hiển Tích làm hàn lâm học sĩ.
[3] Danh nho triều Lư có Lư Đạo Thành, Trương Bá
Ngọc, Tô Hiến Thành... b. Đời Trần
(1225-1400) Vua
Trần Thái tông mở khoa thi Thái học sinh (1232); khoa Tam
giáo (1247) và mở khoa Tam khôi (1247) tuyển trạng nguyên,
bảng nhăn, thám hoa. Khoa ấy, Lê Văn Hưu đổ
bảng nhăn, là sử gia Việt Nam đầu tiên, tác
giả Đại Việt sử kư. Vua c̣n mở Quốc
học viện (1253) giảng Tứ
thư, Ngũ kinh.[4] Đời Trần Duệ tông khoa
thi Thái học sinh được đổi thành Tiến sĩ
(1374).[5] Đời
Trần Nghệ tông, Lê Quư Ly soạn sách Minh
đạo (1302), dịch thiên Vô
dật ở kinh Thư
(1394) để dạy thái tử (sau lên ngôi là Thuận tông),
dịch kinh Thi dạy
nội cung (1396). Đời Thuận tông, Lê Quư Ly làm thái
sư, nắm quyền phụ chính, cải cách thi cử,
ấn định lương bổng của các quan
dạy học ở địa phương. Văn
học đời Trần rất thịnh, nhờ khoa
cử thúc đẩy. Danh nho có Mạc Đĩnh Chi,
Nguyễn Trung Ngạn (viết Giới
Hiên toàn tập), Trương Hán Siêu, Lê Lập,
Phạm Sư Mạnh (viết Hiệp
Thạch tập), Chu An (viết Tứ
thư thuyết ước, Tiều Ẩn thi), Hàn Thuyên... c. Đời Hồ
(1400-1407), Hậu Trần (1407-1413), Minh thuộc (1414-1427) Lê
Quư Ly thay nhà Trần, lập nên nhà Hồ. Nước
loạn, quân Minh xâm lăng, cướp sách vở
đưa về Kim Lăng; những ǵ không đem
được th́ đốt, thiệt hại không kể
xiết. Nhà Minh đưa Tống Nho vào Việt Nam.[6] d. Đời Hậu
Lê (1428-1788) Nho
học rất được chú trọng, được
tôn là quốc học. Khoa cử thúc đẩy, h́nh thành
tầng lớp nho sĩ trí thức đông đảo. Kinh
đô có Quốc tử giám, Thái học viện. Vua Lê Thánh
tông chia nước làm mười ba đạo, hầu
hết các đạo ở đồng bằng đều
lập trường công, ấn định quy chế thi
cử. Năm 1463 có chừng 1400 người thi Hội
ở Thăng Long; năm 1475 tăng lên khoảng 3000 thí
sinh. Từ triều Lê, người thi đậu rất
vẻ vang: có lễ xướng danh, lễ vinh quy, lễ
khắc tên tiến sĩ vào bia đá ở Văn
miếu. Danh
Nho đời Lê có Nguyễn Trăi, Lê Văn Linh, Bùi Cầm
Hổ, Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Trực, Nguyễn Như
Đỗ, Lương Thế Vinh, Đỗ Nhuận, Thân
Nhân Trung, Lương Đắc Bằng, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn
Dữ, Giáp Hải, Nguyễn Mậu Nghi, Phạm Công
Trứ, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Hăng, Phạm Đ́nh
Trọng, Lê Quư Đôn, Lư Tử Tấn, Nguyễn Mộng
Tuân, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên... Trường
thi Hương ở tỉnh Nam Định Lễ
xướng danh những người thi đậu Lễ
vinh quy của tiến sĩ Bia
đá khắc tên các tiến sĩ triều Lê trong Văn
miếu (Hà Nội) e. Đời Tây Sơn
(1788-1802) Sau
khi đánh bại quân Thanh giữa năm Kỷ dậu
(1879), vua Quang Trung lập Sùng chính viện, cử La Sơn
Phu tử Nguyễn Thiệp làm viện trưởng,
với trọng trách chấn chỉnh lại Nho học
Việt Nam. La Sơn Phu tử dịch xong các sách Tiểu học, Tứ thư và Ngũ
kinh ra chữ Nôm, chưa kịp cải cách th́ vua Quang
Trung mất. f. Đời
Nguyễn (1802-1945) Nền
học thuật gắn liền khoa cử ngày càng suy.
Thực dân Pháp xâm chiếm đất nước. Cái
học theo phương Tây khởi sự chen vào. Nền
Nho học cử nghiệp cổ truyền dần dần
mai một, chấm dứt năm 1915 ở miền Bắc,
rồi 1918 ở miền Trung.[7] 2. CÁC TÁC PHẨM
TRIẾT HỌC CỦA NHO GIA VIỆT NAM Nhà
nho có danh đời nào cũng xuất hiện, tên
tuổi c̣n ghi lại nhiều. Ngoài công lao kinh bang tế
thế, tiên nho Việt Nam c̣n giúp vào việc giáo hóa,
trứ tác thơ văn nhiều loại. Riêng về
mặt triết học, cũng rất phong phú, không
những phô diễn đạo lư cổ truyền
Khổng-Mạnh, Tŕnh-Chu mà c̣n bày tỏ ít nhiều quan
điểm riêng của người Việt, thể
hiện hoặc tinh thần độc lập hoặc ư
thức đối kháng với tư tưởng Trung Hoa.
Tiếc thay, sách vở đă bị thất tán, tiêu
hủy sau bao thế kỷ binh lửa. Văn tịch chí trong Lịch
triều hiến chương loại chí của Phan Huy
Chú và T́m hiểu kho sách Hán-Nôm của Trần Văn
Giáp là hai trong những tài liệu quư hiếm, kể
ra được một phần nào sách vở c̣n giữ
lại hay c̣n ghi nhận được, nhờ đó cũng
giúp đời sau có cái nh́n khái lược về tư tưởng
triết học của nhà Nho Việt Nam đời trước.
Căn cứ hai tài liệu ấy, qua một số tác
phẩm mang tính triết học, giáo dục của người
Việt, có thể dẫn lại một ít nhan đề
tiêu biểu như sau (không nói tới sách khảo cứu
lịch sử, địa dư, sáng tác văn chương): (1)
Tứ thư
thuyết ước, mười quyển, Chu An
(?-1370) đời Trần soạn, nay không c̣n. Chu An tự
Linh Triệt, hiệu Tiều Ẩn, thụy Văn Trinh, tôn
hiệu Khang Tiết Tiên sinh, người xóm Văn Thôn, làng
Quang Liệt, huyện Thanh Tŕ (ngoại thành Hà Nội sau này).
Đậu thái học sinh, không ra làm quan, ở nhà dạy
học, nổi tiếng đạo đức, rất đông
học tṛ. Đời Trần Minh tông được
mời ra làm quốc tử giám tư nghiệp. Đời
Trần Dụ tông, dâng sớ xin chém bảy nịnh
thần, Vua không trả lời, ông từ chức về
ẩn ở núi Kiệt Đặc (sau là núi Phụng Hoàng,
huyện Chí Linh, thuộc Hải Hưng sau này). Tháng
12-1370, được đưa vào thờ ở Văn
Miếu. (2)
Chu dịch
quốc âm giải nghĩa, hai quyển, cũng
gọi Chu dịch quốc âm ca
[quyết], Đặng Thái Phương [hay Bàng] (1674-?),đời
Hậu Lê soạn xong trước năm Quư hợi (1743). Tác
phẩm dùng thơ lục bát giải nghĩa từng hào
(diễn ca); như quẻ Càn, hào sơ cửu Tiềm long
vật dụng (rồng ẩn náu chớ nên dùng) diễn
ca là: Sơ
cửu hào nghĩa tiềm long, Bé c̣n ở dưới mà dùng
làm chi.[8] Đặng
Thái Phương người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân,
trấn Nghệ An (xă Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Nghệ Tĩnh
sau này). Năm hai mươi hai tuổi thi đậu khoa Hoành
từ, làm tri huyện Giáp Sơn (trấn Hải Dương),
thăng hiệp trấn, rồi hiến sát sứ Thanh Hóa.
Năm 1743 làm tham nghị xứ Sơn Nam. (3)
Tứ thư
ngũ kinh toản yếu, mười lăm
quyển, Nguyễn Huy Oánh (1713-1798) đời Hậu Lê
soạn. Ông tự là Thư Hiên, hiệu Thạc Đ́nh,
người làng Lai Thạch, huyện La Sơn, Nghệ Tĩnh.
Đậu thám hoa (1748), làm quan đông các đại
học sĩ (1765), thăng lại bộ tả thị lang
(1766) làm chánh sứ sứ bộ sang cống triều Thanh,
trở về thăng tước bá, rồi tước
thạc lĩnh hầu, nghỉ hưu, lại được
mời ra làm quan, thăng đô ngự sử. (4)
Tính lư
toản yếu, hai quyển, Nguyễn Huy Oánh
soạn. Quyển này và quyển trên nhằm tóm tắt các
sách Tứ thư, Ngũ kinh, Tính
lư, tiện lợi cho Nho sinh chuẩn bị thi cử.[9] (5)
Thánh mô
hiền phạm lục, mười hai quyển, Lê
Quư Đôn (1726-1784) đời Hậu Lê soạn. Ông
tự Doăn Hậu, hiệu Quế Đường, quê làng
Duyên Hà (Diên Hà?), huyện Duyên Hà, phủ Tiên Hưng,
trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Thái B́nh). Làm quan
giữ chức thị độc Ṭa Hàn lâm, sung tư
nghiệp Quốc tử giám, làm phó sứ sang Trung
Quốc, tước Dĩnh thành bá, rồi lần lượt
giữ rất nhiều chức vụ quan trọng. Khi
mất được truy tặng thượng thư
Bộ Công, tước Dĩnh thành công. Tác phẩm
rất nhiều. Khi soạn Thánh
mô hiền phạm ông trích lục nguyên văn những
lời nói của thánh hiền, xếp loại, chia thành mười
hai đề mục, ghi rơ xuất xứ từng câu đă
trích trong
Dịch, Thi, Thư, Xuân thu
Tả truyện, Lễ kư, Đại học, Trung dung,
Luận ngữ, Gia ngữ, Hiếu kinh, Mạnh tử, Chu
tử, Quốc sách, Quốc ngữ, Sử truyện, Tiên
nho cách ngôn...[10] (6)
Thư kinh
diễn nghĩa, ba quyển, Lê Quư Đôn soạn.
Trong bài Tựa viết năm
1772, ông bày tỏ: “Tôi thường
nghe, trị thiên hạ không thể không có chính sự, mà
xưa nay người bàn về chính sự thường
lấy sách Thượng thư làm gốc. (...) Tôi thật
ngu lậu, nghiền ngẫm lâu năm, hiểu qua nghĩa
lớn, mỗi khi đọc sách ấy chỉ cảm
thấy ư vị dạt dào, lư thú vô cùng, chỗ nào xúc
động mà phát minh th́ tùy ư chép lại, chứng
dẫn các truyện kư, bàn bạc việc xưa nay, đều
là muốn làm ấn chứng cho sách của thánh nhân.
Hễ chỗ nào cốt yếu th́ thường thường
nêu ra, ư muốn cho những người làm tôi sau này,
trong khi xem sách và xét ḿnh, thấy điều hay điều
phải th́ hăng hái phấn khởi; thấy điều
xấu điều trái th́ sợ hăi e dè, để mà chăm
lo công việc, giữ ǵn chức vụ, họa chăng có
ích. C̣n như noi gương điều đă thành công, răn
dè điều đă thất bại, giữ thịnh pḥng
suy, sách này cũng có thể dùng làm sách để nhà vua
có bên cạnh ḿnh mà xem luôn, dùng làm công cụ lấy
đức trị dân. Đến như những lời
truyện, lời chú của tiên nho, hoặc có chỗ
giống nhau khác nhau và có chỗ đáng ngờ th́ đều
có biện chính sơ qua...” [11] (7)
Dịch kinh
phu thuyết, năm quyển, Lê Quư Đôn
soạn. Trong bài Tựa, ông viết: “Sáu
kinh là dạy về cách trí, thành chính, tu tề, trị b́nh,
nhưng công việc về trời đất, về người,
cùng là phép tắc của muôn vật, th́ chỉ kinh
Dịch là đầy đủ (...). Khổng tử lúc
tuổi già mới thích học Dịch. Khi sửa dọn sáu
kinh (...) chỉ riêng kinh Dịch th́ làm phần Thập
dực, tức là mười phần chú giải của
kinh Dịch (...), giải thích rộng răi, không quản
nhiều lời. Văn chương của Khổng tử
là ở đó mà lời nói về tính và đạo
Trời của Khổng tử cũng là ở đó,
cốt để chỉ vẽ cho thiên hạ và đời
sau, tha thiết biết là nhường nào! Tôi từng
trộm bàn, đạo trời đất vốn hữu thường,
thế mà khi đầy khi vơi, lúc thịnh lúc suy,
sự biến đổi xưa nay không cùng; ḷng yêu ghét,
lúc hợp tan, t́nh của người và vật không
chỉ một mối mà đều tóm cả ở trong 384
hào của 64 quẻ. Quẻ có tác dụng tùy thời
của quẻ, hào có tác dụng tùy thời của hào, thánh
nhân không có chỗ nào là không dạy người tu cái
đạo khuôn xử: như thế là lành, như thế
là dữ, như thế là nên lo ngại, như thế là
không tai vạ, dùng h́nh tượng rất tinh mà không ngoài
các đạo thường về nhân luân và nhật
dụng. (...) Nay hăy đem lời nói trong Đại tượng
các quẻ mà nói, (...) chỉ một câu, nửa lời, mà
dùng không thể xiết, đức cao nghiệp rộng,
thực là ở đó. Huống chi, thông suốt các
quẻ, nghiền ngẫm các hào, trên th́ suy đến
đạo Trời, dưới th́ xét đến t́nh
vật, giữa th́ tham khảo sự tích của cổ nhân,
lời nói việc làm đều trung chính, khi động
khi tĩnh rất kính thành, để cho giữ được
tốt lành, khỏi được hung dữ, đó
chẳng phải là sơ ư lập giáo của thánh nhân ru?
Tôi ngu hèn học kém, kính đọc lời dạy của
thánh nhân, nghiên cứu truyện nghĩa của họ Tŕnh,
họ Chu, xét thêm những lời chú thích của tiên nho,
có khi xúc động mà phát minh ra, nói thêm mấy lời,
gồm có năm quyển, chỉ cốt để sửa
lấy tâm thân cho ít lầm lỗi. C̣n đem thi thố không
nói mà tin là cốt ở đức hạnh, các sĩ quân
tử học kinh Dịch th́ không những là chỉ xem tượng
mà học thuộc lấy lời, xem biến mà học
thuộc câu bói, c̣n cần phải cẫn thận đức
hạnh để hiểu ngầm ư của thánh nhân ở
ngoài lời sách nói mới được.” [12] (8)
Âm chất văn
chú, hai quyển, Lê Quư Đôn soạn. Âm
chất văn tương truyền là của Văn Xương
Đế quân, nói về thiện ác báo ứng, bao gồm
tư tưởng Tam giáo. Trong Đề
từ, Lê Quư Đôn cho biết ông đă căn cứ
theo Đan quế tịch,
bốn quyển, của Hoàng Chính Nguyên đời Thanh
(1761) và Âm chất văn chú,
hai quyển, của Tống Tư Nhân đời Thanh
(1776).[13] Lê Quư Đôn viết: “Văn Xương Đế
quân có bài huấn gồm 541 chữ. Các bực hiền
triết xưa suy diễn ư chỉ để giúp cho người
ghi nhớ mà cố sức theo. Lại chép những
việc thiện ác báo ứng ngay dưới mỗi
tiết, khiến cho người ta ham làm thiện mà không
dám làm ác, sách ấy có quan hệ rất lớn đến
việc dạy đời. “(...) Tôi không tự xét ḿnh,
nhân lấy hai sách ấy [của họ Hoàng, họ
Tống] bổ thêm vào một ít, chia làm hai quyển, trong
phần diễn bỏ chỗ chú cũ đi, có khi bớt
những chữ rườm, thay đổi cước chú,
xếp theo từng loại, tất cả là 283 việc,
cốt cho lời gọn mà nghĩa sáng, việc rành
mạch mà lẽ rơ rệt. Trước là để
tự răn ḷng xét ḿnh, tu dưỡng tính t́nh, cố
gắng sao cho đến được chỗ ít lầm
lỗi, sau là để dạy con cháu, phổ khuyến nhân
sĩ, mong cho đều biết sửa ḿnh theo lễ,
giữ đức dựa nhân, để thành người
quân tử, không đến nỗi làm kẻ tiểu nhân. “(...) Tôi từng trộm nghĩ:
Người ta không ai không có nhân tâm, không ai không có đạo
tâm, nhân tâm tức là nhân dục, đạo tâm tức là
đạo lư. Giữ được một phần thiên lư
th́ bỏ được một phần nhân dục. Nhân
dục thắng th́ làm ác, thiên lư thắng th́ làm
thiện. (...) Nói về một nhà th́ nhờ đó mà có
thể được lành mạnh và hưởng phước
lộc; nói về một nước, cho đến cả
thiên hạ, th́ nhờ đó mà có thể làm cho phong
tục tốt, đưa đến cơi thái b́nh. Đạo
lư ấy rất lớn, độc giả nên kính cẩn
giữ lấy mà cố gắng làm theo.”[14] (9)
Vân đài
loại ngữ, bốn quyển, Lê Quư Đôn
soạn. Sách gồm chín đề mục, trong đó đề
mục thứ nhất là Lư khí
ngữ, gồm 54 điều về vũ trụ, vũ
trụ luận; chủ yếu giải bày quan niệm
của Tống Nho về vũ trụ luận, đồng
thời có nhiều phát triển riêng của soạn
giả.[15] (10)
Chu huấn
toản yếu, năm quyển, do Phạm
Nguyễn Du (1739-1787) đời Hậu Lê soạn. Ông
tự Hiếu Đức và Dưỡng Hiên, hiệu
Thạch Động, người làng Đặng Điền,
huyện Chân Phúc, tỉnh Nghệ An. Làm quan, chức đông
các đại học sĩ, rồi đốc đồng
Nghệ An. Viết nhiều sách, riêng về đạo Nho
c̣n có tác phẩm Luận
ngữ ngu án... Khi soạn Chu
huấn toản yếu ông mô phỏng theo sách Cận
tư lục của Chu Hy và Lữ Tổ Khiêm đời
Tống, lấy toàn văn của Chu Hy chia thành loại,
xếp thành tiết mục, hơn sáu trăm điều.[16] (11)
Xuân thu
quản kiến, mười hai quyển do Ngô
Thời Nhiệm (1746-1803) đời Hậu Lê soạn. Ông
là con của Ngô Th́ Sĩ, tự Hi Doăn, hiệu Đạt
Hiên và Hải Lượng Thiền sư, người làng
Thanh Oai, huyện Thanh Tŕ, tỉnh Hà Đông. Làm quan,
chức hiến sát phó sứ Hải Dương, rồi
nhiều chức vụ quan trọng khác. Đời Tây Sơn
làm quan thị lang, tước T́nh phái hầu, làm chánh
sứ sang Trung Quốc. Viết nhiều sách. Trong Xuân
thu quản kiến, dưới mỗi sự việc chép
trong kinh Xuân thu của
Khổng tử, soạn giả ghi rơ lời chú thích, trích
trong các sách Tả truyện, Công Dương, Cốc Lương...
rồi ghi thêm ư kiến và lời bàn của ông. [17] (12)
Nhân thế
tu tri, tám quyển, do Cao Xuân Dục (1842-1923) đời
Nguyễn soạn. Ông tự Tử Phát, hiệu Long Cương,
quê xă Thịnh Kháng (sau là Thịnh Mỹ), huyện Đông
Thành, tỉnh Nghệ An [có sách ghi: phủ Diễn Châu,
tỉnh Nghệ Tĩnh]. Làm quan, chức thượng thư
Bộ Học, tổng tài Sử quán, tước An xuân
tử. Viết nhiều sách. Nhắc
đến ngũ luân (khuôn phép giữa vua tôi, cha con,
vợ chồng, anh em, bè bạn) và thập nghĩa (mười
lẽ phải gồm cha từ, con hiếu, anh lành, em kính,
chồng nghĩa, vợ nghe theo, lớn huệ, bé
thuận, vua nhân, tôi trung), trong bài Tựa năm 1901 cho Nhân
thế tu tri có đoạn ông viết: “Đời
người phải có ngũ
luân, có thập nghĩa, th́ trước hết làm ra các môn
luân thường, môn phẩm hạnh. Đời người
phải có mưu sinh, làm ăn, th́ làm ra các môn thuật
nghiệp, tố lư. Đời người phải có
sửa ḿnh, thu xếp việc nhà, th́ làm ra các môn trị
nhà, sửa xét ḿnh. Đời người phải có
tiếp xúc với người khác, th́ làm ra các môn thù
tiếp và thủ ngự để kết thúc toàn bộ
sách. V́ vậy, nay vậy, nay tốt, t́m rộng trong các sách,
lựa lọc trích lấy, chia môn, định loại,
đem ra xếp đặt chú thích, tuy đến việc
làm hung ác, cũng trích lấy một hai việc để
mà khuyên răn.” Sách kể ra tám mươi sự
việc xảy ra ở Trung Quốc và Việt Nam, nhằm
khuyên làm lành tránh dữ.[18] Có thể qua sách này t́m
hiểu được triết lư đạo Nho ở
Việt Nam trong một thời kỳ lịch sử
nhất định. · Nho
giáo Việt Nam không phải chỉ là trích cú tầm chương,
khoa cử, phú thi xướng họa. Có một luồng tư
tưởng của người Việt, nó ḥa hợp
đạo Nho với Phật, Lăo và văn hóa bản địa
Việt Nam. Hiện nay, mọi việc nghiên cứu lại
Nho giáo Việt Nam đều c̣n phải khởi sự, mà
khó khăn lớn nhất vẫn chính là sự thất
lạc tác phẩm của tiên nho qua các triều đại. Đạo
Cao Đài xuất hiện ở Nam Kỳ vào đầu
thế kỷ XX với lễ nhạc, y phục, và tiêu
ngữ Nho tông chuyển thế
(lấy tông chỉ đạo Nho để sửa đời
loạn thành trị); phải chăng, trong một chừng
mức nào đó có thể coi Cao Đài như một canh
tân Nho giáo trong thời đại mới? LÊ
ANH DŨNG CHÚ THÍCH [1]
Về mặt tích cực của Nho giáo qua tác động
của khoa cử, xem Lê Anh Dũng, T́m
hiểu Kinh cúng tứ thời, Huế: Nxb Thuận Hóa,
1995, tr. 113-114. [2]
Trần Trọng Kim, Việt Nam
sử lược. Quyển Thượng. Sài G̣n: Nxb
Trung tâm Học liệu, 1971, tr. 99. [3]
Trần Trọng Kim, Việt Nam
sử lược. Quyển Thượng, 1971, tr. 101. [4]
Trần Trọng Kim, Việt Nam
sử lược. Quyển Thượng, 1971, tr. 124. [5]
Trần Trọng Kim, Việt Nam
sử lược. Quyển Thượng, 1971, tr. 124. [6]
Trần Trọng Kim, Việt Nam
sử lược. Quyển Thượng, 1971, tr. 212. [7]
Trần Trọng Kim, Nho giáo.
Quyển Hạ. Sài G̣n: Nxb Trung tâm Học liệu, 1971, tr.
370. [8]
Trần Văn Giáp, T́m hiểu
kho sách Hán-Nôm. Tập II. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă
hội, 1990, tr. 221-228. [9]
Trần Văn Giáp, T́m hiểu
kho sách Hán-Nôm. Tập II, 1990, tr. 229. [10]
Trần Văn Giáp, T́m hiểu
kho sách Hán-Nôm. Tập II, 1990, tr. 229-230. [11]
Trần Văn Giáp, T́m hiểu
kho sách Hán-Nôm. Tập II, 1990, tr. 230-232. [12]
Trần Văn Giáp, T́m hiểu
kho sách Hán-Nôm. Tập II, 1990, tr. 232-234. [13]
Trần Văn Giáp, T́m hiểu
kho sách Hán-Nôm. Tập II, 1990, tr. 235-236. [14]
Phan Huy Chú, Lịch triều
hiến chương loại chí. Tập 3. Hà Nội: Nxb
Khoa học Xă hội, 1992, tr. 174. [15]
Trần Văn Giáp, T́m hiểu
kho sách Hán-Nôm. Tập II, 1990, tr. 257. [16]
Trần Văn Giáp, T́m hiểu
kho sách Hán-Nôm. Tập II, 1990, tr. 261. [17]
Trần Văn Giáp, T́m hiểu
kho sách Hán-Nôm. Tập II, 1990, tr. 235-236. [18] Trần Văn Giáp, T́m
hiểu kho sách Hán-Nôm. Tập II, 1990, tr. 237-239. HẾT
CHƯƠNG I Đôi ḍng sơ lược về tác giả Lê Anh Dũng |
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|