VỊ A-LA-HÁN MÙ (hay TRƯỞNG LÃO CAKKHUPÀLA) (Trích trong "Tích truyện Pháp Cú", nguyên tác "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame) Kệ: Ý
dẫn đầu các pháp, Tôi
(Anan) nghe như vầy: Tại Xá-vệ có một Trưởng
giả tên là Ðại Phú (Mahà
Suvanna). Ông ta rất giàu, có nhiều của
cải và đủ trò vui chơi giải trí, nhưng
lại chẳng có con. Ngày
nọ trên đường đi tắm trở về nhà,
ông trông thấy bên vệ đường một cây
rừng thật lớn, tán lá to rộng. Nghĩ rằng
đây chắc là chỗ ở của một vị
thần đầy uy lực, Trưởng giả ra
lệnh cho dọn sạch miếng đất dưới
gốc cây, rào tường chung quanh và rải cát bên trong,
rồi cho trang hoàng đủ loại cờ xí và
nguyện: "Nếu có một đứa con, ta sẽ
tạ ơn thần xứng đáng". Chẳng
bao lâu vợ ông mang thai. Bà lập tức báo tin cho
chồng. Ông liền tổ chức lễ Bảo thai cho bà.
Sau mười tháng bà hạ sinh một bé trai, và ông đặt
tên con là Pàla, có nghĩa
là người Bảo Trợ, vì nhờ sự bảo
vệ và chăm sóc cội cây mới sinh được
đứa bé. Ít lâu sau, ông có thêm đứa con nữa, bèn
đặt tên là Culla Pàla (Bảo
Trợ em), đứa lớn là Mahà
Pàla (Bảo Trợ anh). Ðến tuổi trưởng
thành ông bà cưới vợ cho hai con. Thời gian sau,
cả hai ông bà đều qua đời, để lại
cho hai anh em toàn bộ gia sản. Lúc
bấy giờ đức Phật
đang chuyển Pháp Luân. Sau khi du hành từ nơi này
đến nơi nọ, Ngài trú tại Tinh Xá Kỳ Viên
do Trưởng Giả Cấp Cô Ðộc xây cất.
Suốt thời gian ngụ tại Kỳ Viên , đức
Phật dạy về pháp sanh thiên, pháp giải thoát. Ông
Cấp Cô Ðộc và bà Tỳ-xá-khư mỗi ngày đều
đặn đi đến Thế Tôn hai lần. Họ không
bao giờ đi tay không vì biết rằng các thầy Sa-di
trẻ đang chờ họ để bát. Trước
ngọ, họ dâng thức ăn loại cứng và
loại mềm. Sau ngọ, họ cúng năm thứ dược
liệu và tám thức uống. Ngoài ra họ luôn dành
sẵn chỗ tại nhà cho hai ngàn Tỳ kheo. Bất
cứ vị nào cần thức ăn, nước uống
hay thuốc men liền được cung cấp như ý
muốn. Trưởng
giả Cấp Cô Ðộc không hề thưa hỏi Phật.
Người ta nói rằng sở dĩ ông không dám thưa
hỏi vì quá kính mến Phật. Ông nghĩ rằng đức
Thế Tôn là một vị Phật cao quý và là một thái
tử phong nhã. Sở dĩ Thế Tôn thuyết pháp cho ai vì
nghĩ đó là thí chủ của Ngài. Nếu bây giờ
phải thuyết pháp cho ta, Ngài sẽ nhọc mệt thêm.
Vì lý do đó, Trưởng giả Cấp Cô Ðộc không
hề thưa hỏi Phật. Nhưng khi ông vừa
ngồi xuống, đức Phật đã nghĩ: "Trưởng
giả này bảo trợ cho ta khi ta không cần bảo
trợ. Ta đã trải qua bốn a-tăng-kỳ và trăm
ngàn kiếp để thành tựu đạo quả. Mái tóc
đeo đầy trang sức ta đã cắt bỏ, đôi
mắt ta đã vứt đi, máu thịt tim ta cũng
nhổ bỏ tận gốc. Con ta, vợ ta thân thiết như
chính mạng sống, ta cũng từ bỏ, chỉ vì
muốn đem chánh pháp đến cho chúng sanh. Người
này bảo trợ cho ta khi ta không cần bảo
trợ". Rồi đức Phật thuyết một bài
pháp. Lúc
ấy có năm mươi triệu trong số bảy mươi
triệu cư dân thành Xá-vệ nghe xong liền xin làm
đệ tử tại gia của Phật. Còn lại hai mươi
triệu chưa tin đạo. Các cư sĩ đệ
tử của Phật có hai nhiệm vụ: trước
ngọ để bát cho chư Tăng, sau ngọ cầm hương
hoa và cùng với tôi tớ mang y phục, thuốc men,
thức uống đi đến đức Phật nghe pháp. Một
ngày nọ, Mahà Pàla trông
thấy các cư sĩ đi đến tịnh xá với
hương hoa trên tay, anh ta bèn hỏi: -
Các vị đi đâu vậy? -
Ði nghe pháp. -
Cho tôi đi với. Rồi
anh ta đi theo họ đến đảnh lễ đức
Phật và ngồi bên ngoài vòng pháp hội. Khi
chư Phật thuyết pháp, các Ngài luôn tùy theo căn cơ
của thính chúng từng người một, xem người
nào thích hợp để quy y, để thọ giới
hoặc xuất gia. Ngày hôm ấy, đức Phật để
ý đến căn cơ Mahà Pàla
và thuyết pháp cho anh ta. Ngài giải thích rành rẽ, theo
thứ lớp từng vấn đề về trí tuệ,
bố thí, giới luật, sự sanh thiên, nghiệp báo,
sự ngu si và uế trược của dục lạc, và
về phước lành của hạnh xuất gia. Gia
chủ Mahà Pàla chú tâm
lắng nghe. Anh nhận định khi con người
từ giã cõi đời sang bên kia thế giới,
chẳng có thể đem theo con cái hay tài sản; hơn
nữa, cả thân này cũng chẳng đi theo được,
vậy sống đời tục gia có lợi gì? Và anh
định xuất gia. Vì thế cuối thời pháp, Mahà
Pàla đến bên đức Phật xin gia
nhập Tăng đoàn. Ðức
Phật hỏi: -
Con còn thân nhân nào không, để việc xuất gia
được đúng pháp? -
Bạch Thế Tôn! Con còn một em trai. -
Vậy thì hãy báo tin cho em con. Mahà
Pàla hoan
hỷ thưa: -
Xin vâng. Rồi
chào Phật trở về nhà, gọi em đến bảo: -
Này chú! Mọi tài sản trong nhà, động sản và
bất động sản, anh giao hết cho chú, hãy bảo
quản. Người
em ngạc nhiên hỏi: -
Còn anh thì sao? -
Anh sẽ theo Phật, gia nhập Tăng đoàn. -
Anh nói gì vậy, anh thân yêu? Khi mẹ mất anh chăm lo
cho em như mẹ, đến cha mất anh lại thay cha.
Nhà anh đầy của cải, chắc chắn anh sẽ
làm được việc thiện dù sống đời
tại gia. Xin anh đừng xuất gia. -
Này chú, sau khi nghe Phật thuyết pháp, anh không muốn
sống đời tại gia nữa. Ðức Phật đã
giảng rất hay trong phần đầu, phần giữa
và phần cuối. Ngài đã nêu lên một cách chính xác
và đúng đắn ba tính chất của các pháp: vô
thường, khổ và vô ngã. Anh không thể hành trì
trọn vẹn giáo pháp nếu còn bận bịu việc
nhà. Anh phải xuất gia em à! -
Anh ơi! Anh còn trẻ lắm, để lúc già hãy đi
tu. -
Ðợi đến già để thành lão khọm à! Tay
chân lụm khụm, không làm gì được theo ý mình,
lại thêm con cháu đùm đề. Không, anh không
thể nghe lời chú được. Anh sẽ làm tròn
bổn phận Tỳ-kheo. Tuổi
già tay yếu run chân Anh
sẽ đi tu, dù chú cản trở cách gì. Mặc
người em than khóc, Mahà Pàla
đi đến gặp Phật và xin xuất gia vào Tăng
đoàn. Ðược thu nhận và tu học, Mahà
Pàla trải qua năm mùa hạ với thầy
Tế độ và Giáo thọ. Mãn hạ thứ năm và
làm lễ giải hạ xong, thấy đến chỗ
Phật, đảnh lễ và thưa hỏi: -
Bạch Thế Tôn! Nương theo Thế Tôn con có bao nhiêu
bổn phận tu tập phải thọ trì? -
Này Tỳ-kheo! Chỉ có hai là Pháp học và Pháp thiền. -
Bạch Thế Tôn! Thế nào là Pháp học? Và thế nào
là Pháp thiền? -
Pháp học là hiểu biết Phật ngôn tùy theo căn cơ
mỗi người, phải thông suốt một hoặc
hai bộ A Hàm, hay toàn bộ Tam Tạng kinh điển,
thuộc lòng, đọc tụng và giảng dạy. Còn Pháp
thiền sẽ dẫn đến quả vị A-la-hán.
Thiền định đòi hỏi một đời
sống đạm bạc, ưa thích ở nơi vắng,
luôn chuyên niệm về lão và tử, và khai triển Minh sát
tuệ bằng sự nỗ lực bền bỉ. -
Bạch Thế Tôn! Vì con đã lớn tuổi mới
xuất gia, con không thể làm tròn bổn phận đối
với Pháp học, nhưng con có thể làm tròn bổn
phận đối với Pháp thiền. Xin dạy cho con
thiền định. Phật
dạy cho thầy pháp tu dẫn đến quả vị
A-la-hán. Thầy đảnh lễ đức Phật và tìm
được sáu mươi vị Tỳ-kheo cùng đi
với mình. Thầy đi khoảng hai mươi dặm (tám
mươi cây số), đến một làng rộng
lớn gần biên giới, và cả đoàn vào làng
khất thực. Dân làng thấy các vị oai nghi chỉnh
tề, làm tròn bổn phận tăng sĩ và lại
dễ thân cận nên sanh lòng quý kính. Họ mời các
thầy ngồi, dâng những thức ăn ngon. Rồi
họ hỏi: -
Thưa chư Tôn giả, các vị đi đâu? -
Này chư thiên tín, chúng ta đi đến một chỗ
ẩn cư thích hợp. Dân
làng khôn ngoan tự hiểu rằng những vị
Tỳ-kheo đáng kính đang tìm chỗ an cư trong mùa
hạ. Họ thỉnh cầu: -
Nếu chư Tôn giả bằng lòng ở đây suốt
ba tháng hạ, chúng con xin quy y và thọ giới. Nghĩ
rằng nhờ những thí chủ này trợ giúp để
tu ra khỏi sanh tử luân hồi, các thầy ưng
thuận ở lại. Dân làng dựng ngay một tịnh xá,
xây khu vực ban đêm và khu vực ban ngày, dâng cúng lên
chư Tăng. Các Tỳ-kheo chỉ có việc đều
đặn vào làng khất thực. Có một y sĩ phát tâm
đến tịnh xá chữa bệnh, ông đã trình lên
chư Tăng nguyện vọng của mình: -
Chư Tôn giả! Chỗ nào đông người đều
không tránh khỏi bệnh tật. Nếu có người
bệnh, xin nhắn tôi đến chữa trị. Ngày
đầu hạ, Trưởng lão Mahà
Pàla đã gọi tất cả Tỳ-kheo lại
hỏi: -
Các huynh đệ, suốt ba tháng hạ các vị sẽ
tu trong mấy oai nghi? -
Trong bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi), bạch Ðại
đức. -
Chúng ta phải thật chánh niệm, chính vì đức
Phật chỉ dạy Pháp thiền mà chúng ta đến
đây hành trì. Sở dĩ chúng ta được chư
Phật gia hộ chẳng do nhờ dối trá hai mặt, mà
chính do hạnh tinh tấn tu tập. Bốn thứ
khổ sanh, lão, bệnh, tử đang chờ người
giải đải tán tâm, đó là cảnh giới họ
ra vào quen thuộc như nhà riêng của mình. Vì thế, các
huynh đệ hãy chánh niệm. -
Còn Ngài, thưa Ðại đức? -
Tôi chỉ dùng ba oai nghi. Tôi sẽ không đặt lưng
nằm. -
Tốt lắm! Thưa Ðại đức, hãy chánh
niệm! Sau
tháng thứ nhất Trưởng lão Mahà Pàla, người
tự nguyện không ngủ, bắt đầu thấy
nhức mắt. Nước mắt chảy ra từ mắt
thầy giống như từ chiếc bình bể. Suốt
đêm dài, thầy dốc hết thân tâm ngồi
thiền, và chỉ đến sáng thầy mới vào liêu
ngồi nghỉ. Ðến giờ đi bát, chư Tăng
đến chỗ Trưởng lão thưa: -
Bạch Trưởng lão! Ðã đến giờ đi
khất thực. -
Tốt lắm, huynh đệ, hãy lấy y và bát. Bảo
họ lấy y bát rồi, chính thầy cũng lên
đường. Các Tỳ-kheo thấy thầy chảy nước
mắt, hỏi: -
Có việc gì vậy, thưa Ðại đức? -
Gió làm xốn mắt tôi. -
Sao ta chẳng mời y sĩ, thưa Ðại đức? Chúng
ta sẽ nhắn ông ta đến. -
Tốt lắm. Các
Tỳ-kheo báo tin cho y sĩ. Ông chế một thứ
thuốc gởi đến. Trưởng lão thoa thuốc
mỡ vào mũi và vẫn ngồi như thường
lệ. Rồi Ngài vào làng. Y sĩ gặp Ngài hỏi thăm: -
Thưa Tôn giả, con nghe nói gió làm Ngài bị đau
mắt? -
Ðúng thế, thiện tín ạ. -
Thưa Tôn giả, Ngài có thoa vào mũi thuốc con đã
chế và gởi đến không? -
Có, thiện tín ạ. -
Bây giờ Tôn giả thấy thế nào? -
Vẫn đau nhức như trước. Y
sĩ bán tín bán nghi, thuốc mình gởi đến
chỉ thoa một lần là khỏi bệnh, vì sao Tôn
giả không hết đau? Ông bèn hỏi tiếp: -
Khi thoa thuốc Ngài ngồi hay nằm? Trưởng
lão im lặng. Mặc cho y sĩ hỏi đôi ba phen, Ngài
vẫn không nói một lời. Y sĩ không biết làm sao
để giải quyết, chỉ còn cách chào Ngài và
đến tịnh xá xem xét chỗ ở. Liêu
của Trưởng lão chỉ có lối kinh hành và
một chỗ ngồi, không có chỗ nằm. Y sĩ
thắc mắc: -
Thưa Tôn giả, khi thoa thuốc Ngài đã ngồi hay
nằm? Trưởng
lão vẫn im lặng. -
Thưa Tôn giả, xin Ngài đừng làm vậy. Việc
tu tập chỉ có thể tiến hành khi nào thân thể
được chăm sóc cẩn thận. Ngài có nằm
khi thoa thuốc không? Y
sĩ hỏi đôi ba lần, Trưởng lão mới
trả lời: -
Hãy về đi, y sĩ. Tôi sẽ hội ý lại và
quyết định việc này. Trưởng
lão không có ai thân thích ở đó cả, vậy thì Ngài
hội ý với ai? Ngài chỉ bàn với chính mình: "Này
Pàlita, thầy quí con
mắt hay quí Phật đạo? Trong vòng luân hồi không
manh mối, biết bao lần thầy không được
sáng mắt. Trong vô số muôn ngàn đức Phật đã
ra đời, thầy đã không gặp được
một vị nào. Giờ đây trong mùa hạ này,
thầy đã quyết không nằm suốt ba tháng. Vậy
cứ để cho đôi mắt bị hư. Chỉ lo
giữ giới luật, đừng giữ con mắt". Và
để khiển trách thân, Ngài đọc bài kệ sau: Mắt
tai nay đã hỏng rồi, Mắt
tai này đã hết mong, Mắt
tai nay đã tiêu tan, Tự
khiển trách mình với các câu kệ xong, Trưởng lão
thoa thuốc lên mũi, lại tiếp tục ngồi như
trước, rồi Ngài vào làng khất thực. Y sĩ trông
thấy hỏi: -
Thưa Tôn giả, Ngài có thoa thuốc vào mũi? -
Có. -
Ngài thấy thế nào? -
Vẫn đau như trước. -
Thưa Tôn giả, Ngài có ngồi khi thoa thuốc hay
nằm xuống? Trưởng
lão im lặng. Y sĩ hỏi lại mấy lần, Trưởng
lão vẫn không nói một lời. Y sĩ bảo: -
Ngài không chịu làm điều phải làm để lành
bệnh. Vì vậy Ngài không nên xin thuốc, và tôi cũng
sẽ không chế thuốc cho Ngài. Tôi không còn cách nào hơn. Bị
y sĩ từ chối chữa bệnh, Trưởng lão
trở về tịnh xá, tự dặn dò: "Tỳ-kheo,
dầu cho thầy bị y sĩ từ bỏ, chớ
từ bỏ tư thế ngồi của mình". Như
con bệnh nan y, Tự
khiển trách mình với bài kệ trên, Trưởng lão
lại tiếp tục thiền định. Vào cuối
đêm đôi mắt Ngài mù hẳn, các lậu đồng
thời hết sạch, Ngài chứng A-la-hán an trú trong an
lạc của Minh sát tuệ. Rồi Ngài vào liêu ngồi
nghỉ. Ðến giờ khất thực, các Tỳ-kheo
đến bên Trưởng lão thưa: -
Bạch Tôn giả, đã đến giờ chúng ta đi bát. -
Ðến giờ rồi ư, chư hiền hữu? -
Thưa vâng. -
Thế thì các thầy hãy đi. -
Còn Ngài, thưa Tôn giả? -
Mắt tôi đã mù. Họ
nhìn vào mắt Ngài và mắt họ đẫm lệ: -
Ðừng lo ngại, chúng con sẽ săn sóc Ngài. Họ
an ủi Trưởng lão, và sau khi xong bổn phận hành
thiền, họ vào làng khất thực. Không
thấy Trưởng lão, dân làng hỏi thăm: -
Bạch quý thầy, Tôn giả Trưởng lão của chúng
con đâu? Khi
rõ sự việc, họ gởi cháo về cúng dường
Ngài. Sau đó, từng người một đem thức
ăn đến đảnh lễ Trưởng lão, lăn
mình dưới chân Ngài, không ngớt than khóc. Rồi
họ an ủi Ngài: -
Thưa Tôn giả, xin đừng lo lắng, chúng con sẽ
săn sóc Ngài. Từ
đó, dân làng đều đặn gởi cháo đến
tịnh xá. Trưởng lão thường răn nhắc sáu
mươi Tỳ-kheo, và các Tỳ-kheo đều tuân hành
theo lời Ngài, nghiêm chỉnh đến nỗi vào ngày
giải hạ tất cả đều chứng A-la-hán và
đắc thần thông. Cuối
mùa an cư, vì muốn gặp Phật, các Tỳ-kheo thưa
với Trưởng lão xin đi. Trưởng lão không tránh
khỏi đăm chiêu: "Ta nay sức yếu, trên
đường về lại đi qua khu rừng có
nhiều ma quỷ. Nếu ta cùng đi, các thầy sẽ
nhọc công và không thể khất thực. Ta sẽ để
họ đi trước". Và
Ngài bảo: -
Các thầy hãy đi trước. Các
Tỳ-kheo thắc mắc: -
Nhưng còn Tôn giả? -
Tôi ốm yếu, đường đi phải băng qua
khu rừng có nhiều ma quỷ, nếu tôi cùng đi các
thầy sẽ nhọc công. Các thầy hãy đi trước. -
Không được, thưa Tôn giả. Chúng con chỉ
đi cùng Ngài. -
Xin các thầy đừng làm thế, tôi chẳng vui lòng.
Nếu em tôi gặp các thầy và hỏi thăm tôi, hãy
bảo là tôi mù mắt, nó sẽ gởi người đến
và dẫn tôi về. Hãy nhân danh tôi chào mừng đấng
Thập Lực (Đức Thế Tôn) và tám mươi vị Ðại
Trưởng lão. Nói
xong, Tôn giả bảo họ ra đi. Bắt buộc
phải lên đường, các Tỳ-kheo đành xin phép
Trưởng lão vào làng khất thực rồi lên
đường. Dân
làng mời ngồi, dâng thức ăn, năn nỉ ở
lại; nhưng biết các Tỳ-kheo phải về
gặp Phật, họ đành khóc lóc tiễn đưa.
Du hành một thời gian, các thầy đến Kỳ Viên
và nhân danh Trưởng lão chào mừng Ðạo sư cùng
tám mươi vị Ðại Trưởng lão. Xong các
thầy đi khất thực, qua nhà gia chủ em của Trưởng
lão. Gia chủ nhận ra các thầy ngay, thân mật đón
tiếp, mời ngồi và hỏi thăm Trưởng lão. Các
Tỳ-kheo kể lại những gì đã xảy ra. Người
em lăn mình trên đất, than khóc mếu máo, không
biết phải làm sao bây giờ. Các
Tỳ-kheo vỗ về: -
Trưởng lão muốn có ai đến đưa Ngài
về. -
Thưa, đây là con của con. Xin gởi nó đi!. -
Ðể nó đi không ổn vì đường nhiều nguy
hiểm. Nếu cho nó xuất gia thì an toàn hơn. Người
em bằng lòng. Thế
là các thầy làm lễ xuất gia cho chàng trai, dạy anh
ta cách thức đắp y v.v... trong vòng hai tuần,
rồi chỉ đường cho anh ta đi. Băng
qua nhiều làng mạc, một hôm thầy Sa-di trẻ
gặp một cụ già tại cổng làng đó và
hỏi thăm: -
Chào cụ, cụ có biết một tu viện ẩn cư
nào gần đây không? -
Thưa Tôn giả, có. -
Ai sống ở đó? -
Có một Trưởng lão tên Pàlita. -
Hãy chỉ cho tôi đường đến đó. -
Tôn giả là ai? -
Tôi là con của em gái vị ấy. Cụ
già liền dẫn thầy đến nơi ẩn cư.
Thầy tới đảnh lễ Trưởng lão, và trong
hai tuần làm đủ bổn phận từ việc
lớn đến việc nhỏ đối với Trưởng
lão, chăm sóc Ngài thật tận tụy. Rồi thầy
đề nghị với Trưởng lão: -
Thưa Tôn giả, cậu của con mong được
gặp Ngài. Chúng
ta hãy trở về. -
Tốt lắm, hãy nắm lấy gậy của ta. Và
như thế tay không rời gậy, cả hai người
một già một trẻ đi vào làng. Dân làng tìm hết
cách thuyết phục Trưởng lão ở lại nhưng
vô hiệu, họ đành khóc lóc đưa đi một
đoạn đường. Họ đi đến ngôi làng
kế cận ở ven rừng tên là Katthanagara,
và lần bước ra khỏi làng. Bỗng
từ xa cất tiếng hát của một cô gái đang
gom củi. Thầy Sa-di chợt cảm thấy yêu mến
ngay tiếng hát trong trẻo (Ðức Thế Tôn đã
từng dạy: "Này các Tỳ-kheo! Chưa từng có âm
thanh nào khác thâu nhiếp con tim người nam bằng
tiếng người nữ"). Và quá xao xuyến
thầy liền buông đầu gậy ra thưa với Trưởng
lão: -
Thưa Tôn giả, chờ con một lát. Con bận một
chút việc. Nói
xong thầy tất tả đi về hướng cô gái.
Trông thấy thầy, nàng ngừng hát và thầy phạm
giới tà hạnh với cô gái. Trưởng lão đợi
thầy Sa-di hồi lâu chưa thấy trở lại, đoán
ngay có điều bất thường, có tiếng hát
phụ nữ và chú Sa-di lại đi lâu quá, chắc đã
phạm giới rồi. Thầy
Sa-di sau đó trở về bên Trưởng lão, hối
hả giục Ngài tiếp tục lên đường: -
Thôi ta đi, thưa Tôn giả. Trưởng
lão nghiêm giọng: -
Này Sa-di, con đã phạm tội phải không? Thầy
im lặng, và dù được hỏi lần nữa
thầy vẫn nín khe. Trưởng lão răn tiếp: -
Một kẻ tội lỗi như chú không bao giờ
được nắm đầu gậy của ta. Thầy
Sa-di quá ăn năn, cởi chiếc y vàng, khoác áo thế
tục, cúi đầu nhận lỗi: -
Thưa Tôn giả, trước đây con là thầy tu, nay
trở lại làm cư sĩ. Con đi tu chẳng
phải do tín tâm, chỉ vì sợ những bất
trắc dọc đường. Giờ thì chúng ta đi thôi. Trưởng
lão vẫn không đổi ý: -
Một kẻ xấu ác, dù là bậc xuất gia hay
tại gia vẫn là kẻ xấu ác. Khi là Sa-di chú không
giữ được phạm hạnh, thì liệu chú có là
người tốt khi làm cư sĩ không ? Một
kẻ tội lỗi như chú không bao giờ được
nắm đầu gậy của ta. -
Tôn giả ! Ðường đầy ma qủy, Ngài lại
mù, làm sao Ngài lại ở đây được ? -
Chú đừng lo việc ấy. Ta có nằm chết ở
đây hay đi đâu chăng nữa, cũng không có gì
quan trọng. Ta không đi với chú. Nói
xong, Trưởng lão ngâm đoạn kệ sau: Ôi
ánh sáng mắt ta đã mất! Chú
nghe những lời này, hối hận, nghẹn ngào,
cất tiếng than: -
Con đã phạm một tội ghê gớm, một lỗi
lầm kinh khủng. Rồi
khóc lóc vặn vẹo đôi tay, chú lao vào rừng mất
dạng. Ðức
hạnh của Trưởng lão làm cho ngai vàng Ðế Thích
dài sáu mươi dặm, rộng năm mươi
dặm, dày mười lăm dặm, rực rỡ màu hoa
hồng đỏ, tự động hạ thấp khi Ðế
Thích ngồi, vương cao khi Ðế Thích đứng,
bỗng nhiên nóng bỏng lên. Ðế Thích giật mình không
hiểu ai có thể hắt ngài ra khỏi ngai như
thế này, và quan sát thế gian, với Thiên nhãn Ngài
thấy Trưởng lão. Ðế
Thích tự nhủ: "Nếu ta không đến giúp
một Trưởng lão ghê tởm tội lỗi và tôn sùng
giới luật như vậy, thì đầu ta sẽ
bể làm bảy mảnh. Ta sẽ đến giúp Ngài". Và
Ðế Thích bay đến Trưởng lão. Khi đến
gần, Ngài kéo lê chân.. Trưởng lão bèn hỏi: -
Ai đó? -
Tôi, một bộ hành. -
Này thiện tín, ngươi đi đâu vậy? -
Ðến Xá-vệ, thưa Tôn giả. -
Hãy tiếp tục lộ trình. -
Nhưng thưa Tôn giả, Ngài đi đâu? -
Tôi cũng đến đó. -
Tốt quá, vậy thì chúng ta cùng đi. -
Này bạn, tôi ốm yếu, đi với tôi bạn
sẽ chậm trễ. -
Tôi không có việc gì gấp. Hơn nữa nếu đi
với Ngài, tôi sẽ được công đức vì
đã làm một trong mười điều thiện. Ta hãy
cùng đi, thưa Tôn giả! Nghĩ
rằng đây là một người ngoan đạo, Trưởng
lão bằng lòng: -
Tốt lắm, hãy nắm lấy đầu gậy của
tôi. Ðế
Thích y lời và làm phép thâu ngắn đoạn đường
để họ đến Kỳ Viên kịp trong chiều
ấy. Và rồi tiếng kèn, trống và những nhạc
cụ khác nổi lên bên tai, Trưởng lão ngạc nhiên: -
Tiếng ấy ở đâu? -
Ở Xá-vệ. -
Này thiện tín, lần trước tôi đi lâu lắm
mới đến, sao kỳ này nhanh vậy? -
Thưa Tôn giả, tôi biết một lối đi tắt. Trưởng
lão hiểu ngay đây không phải là người thường
mà là một vị trời. Rồi
Ðế Thích dẫn Trưởng lão đến một túp
lều bằng lá và cỏ, nơi người em của Trưởng
lão dựng riêng cho anh mình ở tạm, để Trưởng
lão ngồi trên giường, và hóa thành anh bạn đến
thăm người em. Anh bạn này kêu lên khi đến
nhà: -
Bạn Pàla! Pàla
chào bạn: -
Gì vậy bạn? -
Anh có biết Trưởng lão đã về chưa? -
Chưa! Ngài về thật sao? -
Quả vậy, tôi vừa từ nơi ẩn cư về,
thấy Trưởng lão đang ngồi trong lều của
anh. Nói
xong anh bạn ra đi. Vị
gia chủ bèn đi đến lều cỏ. Vừa trông
thấy Trưởng lão, anh gieo mình xuống chân Ngài, lăn
trên đất khóc lóc: -
Con biết mà, Trưởng lão! Vì thế con không muốn
để người đi tu. Hàn
huyên thăm hỏi xong, gia chủ bèn trả tự do cho
hai nô lệ, cho chúng xuất gia làm đệ tử Trưởng
lão để trông nom Ngài. Anh dặn dò: -
Nhớ về làng lấy cháo và thức ăn, chăm lo săn
sóc Trưởng lão. Hai
tân Sa-di chăm sóc Trưởng lão hết sức tận
tụy, làm đủ các bổn phận từ việc
lớn đến việc nhỏ. Ngày
nọ, một nhóm thầy Tỳ-kheo ở xứ khác đến
kính viếng Phật. Sau khi lễ Phật và thăm tám mươi
Ðại Trưởng lão, họ đi tham quan tịnh xá. Ðến
thất của Trưởng lão Cakkhupàla
họ bàn nhau đến vấn an Ngài. Chiều hôm
đó họ định vào thăm, nhưng một cơn
bão dữ dội nổi lên, họ đành quay về và
hẹn sáng hôm sau trở lại. Cơn mưa lớn kéo dài
suốt canh một, đến canh hai thì dứt. Trưởng
lão, một con người giàu nghị lực đã quen
kinh hành, lần xuống hàng hiên vào canh năm, và vô tình
giẫm chết rất nhiều côn trùng bò lổn ngổn
trên nền đất ẩm. Các thầy Tỳ-kheo ngụ
tại đó không quét dọn sớm, nên khi các thầy
Tỳ-kheo ở xa đến thăm Trưởng lão,
thấy đủ loại côn trùng nằm chết rải rác
ngoài hàng hiên. Họ kinh ngạc lên tiếng: -
Ai đã bước đi trên lối này? Và
được trả lời: -
Thưa Tôn giả, Thầy chúng tôi. Họ
bực bội nói: -
Xem một Tỳ-kheo kìa! Khi ông ấy sáng mắt thì
nằm ngủ và không tạo tội. Còn bây giờ mù
mắt lại nghĩ: "Tôi sẽ kinh hành". Và đã
giết chừng ấy côn trùng. Ông ấy nghĩ mình làm
đúng, nhưng thật chẳng đúng tí nào. Rồi
họ bỏ đi và bạch với Phật: -
Bạch Thế Tôn! Trưởng lão Cakkhupàla
nghĩ "Tôi sẽ kinh hành", và đã
giết hại nhiều côn trùng. Thế
Tôn gạn hỏi lại: -
Nhưng các ông có thấy ông ấy giết không? -
Thưa không thấy. -
Thực sự các ông không thấy ông ấy giết, cũng
vậy, ông ấy không thấy côn trùng. Này Tỳ-kheo! Người
giải thoát các lậu hoặc, không còn ý sát sanh. -
Bạch Thế Tôn, vị ấy chắc chứng A-la-hán,
vậy do đâu mà bị mù? -
Này các Tỳ-kheo, đó là vì lỗi lầm trong một
kiếp quá khứ. -
Sao thế, bạch Thế Tôn, vị ấy đã làm gì? -
Các ông hãy lắng nghe! Chuyện
quá khứ Người
Ðàn Bà Và Ông Thầy Thuốc Ðộc Ác. Thuở
xưa, khi vua Kàsi lên ngôi
ở Ba-la-nại, có một thầy thuốc đi dạo
xóm làng chữa bệnh. Gặp một người đàn
bà đau mắt, ông hỏi: -
Bà sao vậy? -
Tôi không thấy rõ. -
Tôi sẽ chữa cho bà. -
Xin thầy làm ơn chữa giùm. -
Bà sẽ trả công cho tôi thế nào? -
Nếu thầy chữa được cho tôi mắt sáng và
khỏe mạnh lại như xưa, tôi và luôn cả con
trai con gái tôi sẽ hầu hạ thầy. -
Tốt lắm. Rồi
ông kê toa cho thuốc. Chỉ sau một lần dùng
thuốc, đôi mắt của người đàn bà sáng
lại. Hạnh phúc vừa đến nhưng lại kèm
theo nỗi lo âu mãi lởn vởn trong đầu: "Mình
hứa làm nô lệ cho ông thầy, cả các con mình cũng
phải làm. Nhưng xem ra lão ấy chẳng tử tế
đâu. Chà! Làm sao bây giờ đây? Phải tìm cách để
gạt lão mới được". Kịp đến lúc
thầy thuốc trở lại hỏi thăm bệnh tình,
bà làm ra vẻ khổ sở: -
Trước đây mắt tôi đau ít, nay lại đau
dữ dội hơn bao giờ. Ông
thầy đoán ngay là bà ta muốn lừa mình để
quỵt tiền công chữa bệnh. Ông tức giận
lầm bầm: "Ðược rồi, ta chẳng cần
mụ trả công, ta sẽ cho mụ mù luôn". Và ông
bỏ đi ngay không nói một lời, trước
cặp mắt ngơ ngác của người đàn bà
thất hứa. Ông
thầy thuốc về nhà, kể lại cho bà vợ nghe
cho hả tức. Vợ ông lặng thinh, còn ông thì tức
tốc bào chế một thứ thuốc mỡ khác, mang
đến cho người đàn bà và dặn thoa vào
mắt. Người đàn bà làm theo chẳng chút nghi
ngờ và ánh sáng đôi mắt vụt tắt. Ông
thầy thuốc đó chính là
Cakkhupàla. (Hết
Chuyện Quá Khứ) -
Này các Tỳ-kheo! Ðệ tử ta làm ác nên bị ác
nghiệp theo đuổi mãi mãi, vì việc
ác đi theo người làm ác như bánh xe lăn theo chân
con bò kéo xe. Kể
chuyện xong, đấng Pháp Vương tuyên đọc bài
kệ sau: Ý
dẫn đầu các pháp, |
Thiên-Lý Bửu-Tòa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|