1) "Tết" từ chữ
"tiết", nghĩa là mùa, hay hiểu rộng
ra là mùa hội. Tết là dịp sum họp gia đ́nh,
thăm viếng thân nhân, thờ phượng tổ
tiên. Tết cũng là dịp nghỉ ngơi chơi
đùa để chuẩn bị cho một năm
mới.
2) Phong tục ngày Tết phản ảnh những
đặc thù của nền văn hoá VN qua nhiều
thế hệ, và c̣n tùy thuộc vào từng vùng trên
đất nước. Nhưng chúng ta vẫn có
thể chia ra làm 2 loại chính: phong tục đón
Tết với gia đ́nh và đón Tết với xóm
làng.
Tết là lúc gia đ́nh họp mặt
đông đủ. Ai đi làm đi học ở xa
đều được về nhà khoảng 23 tháng
chạp để đón Tết với gia đ́nh.
Thông thường 1 gia đ́nh VN giành ra nửa tháng
để chuẩn bị cho ngày Tết, thí dụ như
dọn dẹp nhà cửa, sắm sửa quần áo,
các món ăn.
Thông thường những phong tục đón Tết
với gia đ́nh gồm có: đi thăm mộ
tổ tiên, đưa táo quân về trời, rước
vong linh ông bà, đốt pháo, xuất hành, xông nhà,
chúc thọ, ĺ x́, thăm viếng, và tục kiêng
cữ.
Chúng ta c̣n có tục lệ đón tết với làng
xóm v́ từ xưa xă hội VN được
tổ chức theo hệ thống làng xóm, trong đó
làng là đơn vị nhỏ nhất. Đón
Tết với xóm làng gồm có: dựng nêu, hái
lộc đầu xuân, các đám hội xuân như
thi hát quan họ, hát đố, thi đánh vật,
thi chèo thuyền, thi làm thức ăn.
3) Những tiêu khiển ngày xuân gồm có: khai bút
đầu xuân, câu đối Tết, tranh Tết,
mai đào, đánh cờ tướng, múa lân.
4) Món ăn ngày xuân th́ nhiều lắm nhưng thông
thường trên bàn thờ lúc nào cũng có 4
loại trái cây (cầu, dừa, đu đủ, xoài)
tượng trưng cho "cầu vừa đủ
xài".
Đặc biệt c̣n có bánh chưng bánh dầy, dưa
hấu.
=======================================
Thăm
mộ tổ tiên : từ ngày 23 đến ngày 30
tháng chạp con cái trong gia đ́nh tề tựu
đông đủ cùng nhau đi thăm, quét dọn
mồ mả tổ tiên và đem theo hương
đèn hoa quả để cúng, mời vong linh
tổ tiên về ăn Tết với con cháu.
Đưa
Táo quân về trời : Táo quân là thần Táo,
hay c̣n gọi là vua bếp. Tục truyền mỗi năm
thần Táo phải về trời 1 lần, vào ngày
23 tháng Chạp để tường tŕnh cho Thượng
đế những việc xảy ra trong nhân gian trong
năm đó. V́ vậy vào ngày đó người dân
VN thường cúng kiến rất long trọng để
tiễn thần Táo về chầu Ngọc hoàng, và
đến ngày 30 lại cúng để mời ông bà
và Táo quân về ăn Tết. Theo tục lệ,
tiễn Táo quân về trời ngoài mâm cơm c̣n có
áo măo bằng giấy, đôi hia, và con cá chép
thả trong chậu nước để Táo quân
cỡi về trời. Nói chung tục lệ này
nhằm để răn dạy người ta nên
giữ ǵn hạnh kiểm, v́ mọi sự đều
sẽ được tâu lên với Ngọc Hoàng.
Lễ rước vong
linh ông bà là lễ mời ông bà về ăn
Tết với con cháu.
Chiều ngày 30 tháng Chạp, trên bàn thờ tổ tiên
được bày 1 mâm cỗ bao gồm trái cây và
thức ăn. Người gia trưởng thắp hương
dâng lên bàn thờ, cầu xin tổ tiên chứng giám
và phù hộ cho gia tộc được nhiều phước
lành trong năm mới. Theo sau đó mọi người
trong gia tộc đều chắp tay cung kính thỉnh
vong linh ông bà về ăn Tết.
Tục lệ đốt
pháo người ta tin rằng tiếng pháo có
thể xua đuổi được tà ma và đem
lại phước lành cho năm mới. C̣n có
truyền thuyết rằng trong số những hung
thần có 2 vợ chồng Na Á hay phá phách hăm
hại người dân VN, họ chỉ sợ ánh sáng
và ồn ào nên dân ta bày ra đốt pháo ầm
ĩ chói sáng để đuổi 2 hung thần này.
Đốt pháo đúng giao thừa (thời điểm
giao ḥa giữa 12 giờ đêm 30 tháng Chạp
của năm cũ và mồng một của năm
mới), mọi người đốt pháo cùng
một lúc, đủ cả các loại pháọ Chính
tiếng pháo ḍn dă và mùi khét của thuốc pháo
quyện vào mùi hương nhang đèn trên bàn
thờ tạo thành một không khí đặc
biệt rất Tết của dân tộc ta.
Ngày nay không mấy ai c̣n tin việc đốt pháo
để tiêu trừ tà ma, mà tiếng pháo nổ ngày
nay tượng trưng cho sự tưng bừng náo
nhiệt của ngày Xuân, xác pháo đỏ thắm tượng
trưng cho những điều may mắn cho năm
mới.
Lễ xuất hành
là chọn một người trong gia đ́nh bước
ra khỏi nhà trong những giây phút đầu tiên
của năm mới. Người xuất hành
phải xem lịch, chọn hướng tốt,
hạp với tuổi để mong được
may mắn trong năm mới mỗi khi bước chân
ra khỏi nhà.
Lễ xông
nhà (hay xông đất) có là v́ nhiều người
tin rằng người đầu tiên bước vào
nhà ḿnh ngay đầu năm sẽ đem lại hên,
xui cho gia đ́nh suốt cả năm. Nên người
ta hay mời người có vận may (làm ăn phát
đạt, gia đ́nh hạnh phúc) đến xông nhà
dùm. Người xông nhà phải ăn mặc
chỉnh tề, bước vào cửa chính rồi
đi quanh nhà, đến bếp, ngụ ư đem
lại may mắn vào từng xó nhà.
Lễ
chúc thọ là sáng sớm ngày mồng
một Tết, con cháu trong nhà tỏ ḷng hiếu
thảo qua việc mừng tuổi chúc thọ cho ông
bà cha mẹ. Mừng tuổi v́ người VN quan
niệm rằng hôm ấy mỗi người đều
lên 1 tuổi, không phân biệt ngày sinh nhật như
người phương Tây.
Danh từ Ĺ x́
là được phiên âm từ tiếng Quảng
đông sang tiếng Việt, nguyên là chữ
"Lợi thị" Trong Hán tự, có nghĩa là
tiền bạc, lợi lộc. Để mừng
tuổi các em nhỏ, những người lớn
trong gia đ́nh tặng những món tiền nho
nhỏ và chúc các em chóng lớn, học hành đỗ
đạt trong năm mới. Tiền được
để trong những bao đỏ, v́ màu đỏ
tượng trưng cho sự may mắn.
Tục
thăm viếng là lúc chủ nhà tiếp
đón bạn bè quyến thuộc đến thăm,
và cũng đi thăm trả lễ. Thông thường
ngày mùng một được dành để chúc
thọ những bậc trưởng thượng,
họ hàng. Ngày mùng 2 dành cho thầy cô giáo, ngày mùng
3 là để thăm hỏi vui chơi với
bạn bè.
Tục kiêng cử
: trong 3 ngày đầu năm người ta thường
thận trọng lời ăn tiếng nói và hành
động v́ tin rằng có thể đem lại hên
xui cho cả năm. Thí dụ như không quét rác,
nhất là quét xác pháo ra khỏi nhà v́ bị xem là
quét tiền ra cửa. Không tặng thuốc men hay dao
nhọn v́ bị xem là dấu hiệu của
bệnh hoạn và xung khắc. Không khóc lóc than
thở hay đập vỡ chén dĩa v́ đó là
dấu hiệu của sự đổ vở trong gia
đ́nh. Không mặc đồ trắng hay đen v́
bị xem là dấu hiệu của sự tang tóc.
Dựng nêu : Ngày
Tết người ta hay dựng nêu ở các chùa,
đ́nh làng, và có khi ngay trước cửa nhà
nữa. Tương truyền ngày xưa làng xóm VN hay
bị quỷ quấy nhiễu nên mọi người
cầu khẩn Phật giúp đỡ. Sau khi đă
đuổi xong yêu quỉ Phật dặn không
được bén mảng đến những vùng
đất có dấu tích của Phật. Và Phật
dạy mọi người dựng nêu và rắc vôi
trắng xung quanh để đánh dấu phần
đất quỷ phải tránh xa. Cây nêu là 1 thân tre
cao, trên có treo 1 ngọn cờ ngũ sắc tượng
trưng cho 5 hành : kim, mộc, thủy, hỏa, thổ
(kim=trắng, mộc=xanh, thủy=đen, hỏa=đỏ,
thổ=vàng). Xen kẽ giữa những dải
lụa ngũ sắc là những chiếc khánh làm
bằng nhiều chất liệu khác nhau (gỗ, kim
loại, đất nung, sành). Nêu được
dựng đến mùng 7 Tết th́ người ta làm
lễ cúng trời đất, c̣n gọi là lễ
Khai hạ và hạ nêu xuống. Lễ này chính
thức chấm dứt Tết.
Tục hái lộc đầu
xuân được thực hiện trong sân
đ́nh, chùa, song song với việc dựng nêu.
"Lộc" có 2 nghĩa, 1 là nhánh cây non, 2 là
bổng lộc. Đầu năm, người ta hay
ghé lại các cây cổ thụ trong sân đ́nh, chùa
để hái 1 nhánh non đem về treo trước
nhà hoặc chưng trên bàn thờ. Có lẽ v́ nghĩ
rằng lộc (nhánh cây) đồng nghĩa với
phước lộc nên đem nhánh non về để
hy vọng rước được phước báu
về cho gia đ́nh.
Hát Quan họ:
Quan họ là 1 thể loại dân ca Bắc bộ,
xuất phát từ tỉnh Bắc Ninh. Qua những câu
hát quan họ, trai gái khen ngợi nhau, tỏ t́nh,
rồi hứa hẹn với nhau. Khi thi hát, mỗi bên
trai gái có chừng 4 người. Trọng tài
chấm theo tài đối ư và đối giọng. Câu
hát của bên này càng lắt léo và dài hơi th́ bên
kia càng khó đối. Phần thưởng trong
cuộc thi này tuy không nhiều nhưng là vinh dự
lớn cho những người hát.
Thi đánh vật
: Tương truyền nữ tướng Lê Chân
thời Hai Bà Trưng lập ra cuộc thi này để
tuyển binh, về sau người ta nhớ đến
nên tổ chức vào mỗi dịp Tết.
Thi chèo thuyền:
tương truyền nữ tướng Cao Nhự là
người đầu tiên tổ chức nên đội
thủy binh đầu tiên ở nước ta. Nên
cứ đến ngày Tết là có tổ chức
cuộc thi này để nhắc nhở rằng dân
ta giỏi cả về thủy chiến.
Khai bút đầu xuân:
các cụ th́ làm thơ bằng chữ Nôm hay chữ
Hán, rồi viết lên giấy điều để
chúc lành cho năm mới.
Câu đối:
là 2 câu có số chữ bằng nhau, ư và lời
đối chọi lẫn nhau. Nội dung câu đối
Tết là điều chúc lành đầu năm, thường
được viết lên 2 dải giấy điều,
bằng mực Tàu. Người viết thường
là các ông đồ già trong làng, có chữ đẹp.
Câu đố hay được treo hai bên nhà để
khách lại có thể thưởng thức cùng
với chủ nhà.
Tranh Tết:
tranh Tết được treo để trang hoàng nhà
cửa. Tranh thường là tranh Đông Hồ (1 làng
nhỏ ở miền Bắc). Tranh diễn tả
những lời chúc qua việc nhân cách hóa động
vật, thí dụ như tranh vẽ 1 đàn gà (tranh
"Gà đàn") thể hiện cho lời chúc con
cháu đầy đàn.
Hoa ngày Tết:
2 loại hoa hay được chưng trong ngày
Tết là mai (miền Nam) và đào (miền Bắc).
Chưng mai vào ngày Tết không những v́ mai nở
rộ, mà c̣n là v́ người Nam đọc mai thành
"may" trong may mắn. Mai đại diện cho mùa
xuân trong tranh tứ quư (mai, lan, cúc, tùng), lại c̣n
tượng trưng cho người có tài đức
và nhân cách cao thượng trong tứ quân tử
(mai, lan, cúc, trúc).
1 cành mai đẹp phải có : cành Văn (nhánh
ngang), cành Vũ (nhánh đứng), cành Phụ (cành
lớn), cành Tử (cành nhỏ), cành Quân (cành dài),
cành Thần (cành ngắn).
Văn-Vũ = cương nhu, lúc cứng lúc mềm
Phụ-Tử = t́nh cha con
Quân-Thần = nghi lễ
Hoa đào c̣n có 1 sự tích, tục truyền ngày xưa
có 2 vị thần Trà & Uất Luỹ ở trên 1
cây đào khổng lồ phía đông núi Sóc sơn
(miền Bắc). Ma quỷ rất sợ 2 vị
thần này, đến nổi sợ luôn cả cây
đào. V́ đến cuối năm 2 thần
phải về trời chầu Ngọc Hoàng nên người
dân bẻ cành đào chưng trong nhà cho ma quỷ không
quấy phá.
Múa lân: lân là 1
trong 4 con vật huyền thoại: long, lân, quy, phụng.
Lân tượng trưng cho sức khoẻ vô địch,
múa lân vừa là 1 tṛ tiêu khiển cho các em nhỏ vào
dịp Tết, vừa khuyến khích các em trao
dồi sức khoẻ. Thường đám múa lân
dẫn đầu bằng ông địa, theo sau là vài
con lân, mỗi con 2 người múa.
Sự tích bánh chưng
bánh dầy : Ngày xưa, vua Hùng Vương có
18 người con, đến Tết năm ấy vua
truyền lịnh cho các con trai rằng ai mang đến
cho nhà vua loại bánh nào tuyệt hảo nhất,
sẽ được nối ngôi vua. Lúc đó hoàng
tử Lang Liêu, mồ côi mẹ nên không ai giúp đỡ.
Trong cơn mơ, có một bà tiên xuất hiện và
khuyên Lang Liêu rằng: "Con hăy nghĩ đến
một thứ bánh nào tượng trưng cho công lao
của cha mẹ đă dành cho con cái".
Cuối cùng, Lang Liêu làm ra 2 loại bánh : 1 loại
tṛn tượng trưng cho trời, 1 loại vuông tượng
trưng cho đất. Bánh tượng trưng cho công
ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ
đối với con cái, v́ công ơn cha mẹ
lớn tựa trời đất. Bánh làm bằng
đậu, nếp, và thịt heo tượng trưng
cho công lao nuôi dưỡng, chăm sóc của cha mẹ
đă dành cho con cái ... bằng những món ăn. Vua
nghe thấy chí lư, bèn truyền ngôi cho hoàng tử
Lang Liêu. Sau khi lên ngôi, Lang Liêu truyền lịnh cho
cả nước giữ tập tục ăn bánh
dầy, bánh chưng vào dịp đầu năm
để tưởng nhớ công ơn của cha
me..
Sự tích dưa
hấu: vua Hùng Vương thứ 18 có 1 người
con nuôi tên là Mai Yển, hiệu là An Tiêm. Vua rất
thương An Tiêm, phong quan tước và cưới
vợ cho.
Nhưng có lần yến tiệc với bạn bè,
An Tiêm vui miệng nói rằng những ǵ chàng có
được là hoàn toàn do số phận mà
trời đă định cộng với công sức
và tài năng của chàng. Vua nghe được
giận lắm nên thu hồi chức tước và
đầy vợ chồng con cái An Tiêm ra 1 hoang đảo
ở ngoài biển Nga Sơn (Thanh Hóa). Một hôm, có
một bày chim lạ từ phương Tây bay đến,
thả xuống một loại hạt, từ đó
mọc lên một loại cây có thân dây tươi
tốt có trái thật ngọt. An Tiêm bèn đem
loại dưa ấy đổi với những tàu
buôn ghé ngang đảo. Những người đó
đem dưa về đất liền bán ra
được nhiều người thích. Nhờ
đó mà An Tiêm trở thành giàu có. Nhà vua biết
chuyện thầm khen phục và cho triệu An Tiêm
về triều khôi phục chức vị ngày xưa.
An Tiêm mang theo hạt giống về cho dân chúng
trồng, ḥn đảo ấy được đặt
tên là đảo Châu An Tiêm. Khi người Tàu ăn
loại dưa này, thấy ngon, khen là
"hẩu". Người Việt ta đọc
trại ra là dưa hấu.
Sự Tích Táo quân:
Ngày xưa có hai vợ chồng nọ rất nghèo,
người chồng phải đi làm ăn xa để
kiếm sống và hẹn cứ một năm về
thăm vợ một lần. Ít lâu sau, giặc giă
nổi lên khắp nơi, người vợ phải
dời nhà đi nơi khác và từ đó cũng
lạc mất tăm dạng người chồng.
Một thời gian sau, người
vợ có chồng khác. Hai vợ chồng làm ăn khá
giả. Một hôm, có một ngừời đàn ông
nghèo khổ, ăn mặc rách rưới đến
xin ăn. Người vợ động ḷng từ
bi, đem tiền gạo ra cho. Nhận ra người
hành khất chính là người chồng trước,
người vợ cho chồng ăn uống no đủ
và hai vợ chồng khóc lóc kể lể niềm thương
nỗi nhớ. Vừa lúc đó, người
chồng sau đi săn về. Sợ chồng sau
biết chuyện, người vợ bèn giấu người
chồng trước vào đống rơm và dùng rơm
phủ lên trên. Không ngờ, người chồng sau
lại dùng đống rơm đó mà vui vẻ nướng
con mồi vừa săn được.
Người chồng trước thấy rơm cháy
nhưng sợ chui ra th́ sẽ làm người vợ
xấu hổ, khó ăn khó nói với người
chồng sau nên nằm im chịu chết. Người
vợ quá đỗi thương tâm, nhảy vào
đống lửa chết theo chồng. Người
chồng sau thấy vậy, quá thương vợ cũng
nhảy vào đống lửa để cùng chết
với nhau.
Sentiblue sưu tầm
|