PHỔ-ĐỘ
NHƠN-SANH Bằng Cách Nào?
*
* *
NGỌC-HUỆ-CHƠN
Người
chơn-tu chứng thật, đã biết thế nào
là khổ-não thì ai lại cứ lăn mình vào đó?
Cho
nên, người chơn tu phải biết đặt
vấn đề:
“Làm
sao giải quyết vấn đề sanh tử
của mình, để rồi giúp đở cho
mọi người?”
Nếu
cứ chấp chặt: “Thôi mình an phận lo làm
lành làm phước đời sau hưởng phước,
giàu sang, sung sướng hơn, để rồi
chỉ hưởng được phước báu
trong vòng nhơn thân mà thôi. Như vậy, khi hưởng
hết phước rồi sẽ ra sao?”
Cho
nên, người trí phải thấy sự sanh tử
là khổ não, mình phải tỉnh, phải giác,
thừa nhận sự sống chết là đau
khổ, để đừng ham muốn
trìu-mến nó nữa.
Khi
còn lành mạnh, không biết tỉnh-giác, không
chịu tu học, không nghe lời Trời Phật
dạy để biết thân nầy là rừng
tội, tâm nầy là nguồn gốc của mọi
sự ác trược mà phải giác-ngộ.
Sự
gánh gồng còn thể thay thế được,
chớ khổ vì bịnh thì ai có thể đau
thế cho họ được không?
Chỉ
có cách đem lời dạy của Phật để
nhắc tĩnh giác mọi người khỏi
lầm lộn, khổ não. Nghĩa là mình chịu
nhọc-nhằn tu học tìm cầu đạo-lý
để rồi đem giáo-lý giác-ngộ thức
nhắc, đánh tỉnh mọi người, giúp
họ tỉnh dược giấc mê, thoát ra ngoài
mọi sự ràng buộc trong vòng luân-hồi sanh
tử.
Từ
lâu, mình bị khổ nhiều là do tự mình
tạo ra, nên mới có khổ. Cùng một việc,
nay có 2 kết quả khác nhau:
-
Người không biết đạo, khi nghe ai chê
hoặc nói xấu thì buồn-bực.
-
Ngược lại, người chơn tu, nghe
hiểu lời dạy của Ơn Trên, nếu
bị ai chê hoặc nói xấu mình phải xét xem mình
có lỗi lầm không?
Nếu
không lỗi lầm thì bỏ đi. Ngay đến
khi nghe mà mình vẫn an-ổn thân tâm.
Cho
nên, phần cứu khổ của Trời Phật là
dạy chúng ta, thâu liểm giáo-lý, trí-tuệ
rộng mở, thì tự nhiên hết khổ,
Tuy
nói Trời Phật cứu-độ, nhưng chính
thật ra là tự mình cứu lấy mình. Vì
nhờ Trời Phật chỉ dạy, để
rồi mình đem ra áp dụng vào cuộc sống
tức là tự mình cứu lấy mình.
Như
vậy, tự mỗi người đều sẵn
có Phật-Tánh trong tâm mình. Nhờ đó mà ở vào
trường hợp nào mình cũng vẫn được
an-ổn. Thế cho nên, phát tâm Đại-Thừa
nguyện thay chúng sanh chịu khổ, không có nghĩa
là mình chịu cực thế cho người. Ví như:
-
Thấy chúng sanh đắm mình trong luân-hồi sanh
tử, tôi thương quá. Nói suông như vậy chưa
đủ. Cũng như:
-
Thấy người sắp chết chìm, đang
chới-với giữa giòng sông, mình thương quá.
Phải làm sao độ họ?
Trong
khi đó, chính mình cũng đang lặn-hụp,
chới-với như họ, thì làm sao cứu người
được?
Vậy
thì mình phải làm sao cho mình biết lội
giỏi, có phương tiện, như có thuyền,
bè hoặc trái nổi mới có thể cứu
vớt người sắp bị chết chìm.
Nếu
lúc nguy cấp ấy mà mình cũng là một nạn
nhơn hấp-hối, thì dù có thương người
muốn cứu vớt người cũng không làm
sao cứu được?
Các
phương tiện như thuyền bè, trái nổi
đó là gì? Là mình tự tu, tự tạo cho mình
được tính-giác cho thật vững-vàng
rồi mới có thể tỉnh-giác cho người
khác.
Tóm
lại, ta phải tạo cho mình được
một nếp sống an lành, tự chủ, sáng
suốt. Tức nhiên là chúng ta lấy đạo-đức
để làm chiếc bè, trái nổi để
chở mình và đưa người đến
bờ giác-ngộ.
Chúng
ta luôn luôn được an ổn ngay trong cuộc
sống hiện tại, trong khi mọi người
đang trầm-luân, chìm đắm trong sanh tử. Như
vậy, mới có thể cứu cho người khác
được hết khổ an vui như mình.
Thế
cho nên, trong kinh thường nói:”Muốn cứu
người chết chìm thì chính mình phải là người
biết lội giỏi”. Vì vậy người
chơn tu tĩnh-giác
thấy sự đau khổ
của chúng sanh đều
phát tâm Đại-Thừa, nghĩa là phát tâm
rộng lớn, nguyện thay thế chúng sanh chịu
khổ vô-lượng như Bồ-Tát hay Phật
vậy. Muốn cho chúng sanh được an vui,
tức nhiên mình phải hy-sinh,
can-đảm chịu đựng sự
gian-khổ để tu tập, tự xét mình trong khuôn
khổ đạo-hạnh giới-luật để
sớm được tỉnh-giác, rồi sau đó
mới cứu-độ cho tất cả chúng sanh.
Có
2 quan-niệm đi tu:
1/-
Vì đau khổ, và thấy cuộc đời có
nhiều đau khổ nên phát tâm tu.
2/-
Vì thấy chúng sanh bị trầm-luân, chìm-đắm
trong sanh tử khổ não mà không tìm ra lối thoát,
nên phát tâm thương xót chúng sanh mà đi tu.
Tóm
lại :
-
Một vì sợ sệt đau khổ cho mình. Tự
cứu mình bằng cách đi tu.
-
Hai là vì thương xót chúng sanh mà đi tu.
Tu
để tìm cầu lối thoát chung cho mọi người.
Đó là quan-niệm Đại-Thừa. Như người
đóng thuyền để cứu vớt người,
chớ không phải đóng thuyền để
cứu vớt mình. Nhưng khi mình đã là người
chèo thuyền đi cứu người thì tự nhiên
mình đã không bị chết chìm. Như vậy, khi
phát tâm đi tu để được tĩnh-giác
sau đó sẽ cứu độ chúng sanh, ngay khi
đó mình đã tự cứu mình rồi.
Thái-độ
của người chơn tu như thế nào?
-
Trước hết là thái-độ
tự-trị :
Làm chủ đời sống cảm-xúc, bản-năng
và tình-thế bên ngoài.
-
Ở trong đời nhưng không để cho đời
làm mất chân tánh.
-
Sống trong thời-đại xã-hội nhứt
định không lệ thuộc thời-đại xã-hội.
-
Cũng như trăm ngàn người khác, nhà
hiền-triết cũng biết đói rét, nhưng
không để nhu cầu vật-chất trói
buộc, đến đỗi phải thu hẹp
cuộc đời vào miếng cơm manh áo.
-
Sống trong đời, nhưng không lãnh-đạm
thờ-ơ với thời-thế, thông-cảm
những đau-khổ hoạn-nạn của người
đời, công-phẩn trước bất công, chia
vui xẻ ngọt cùng dân-tộc, nhưng không
xu-thời, không để tình-thế lôi cuốn xoay
vần như chong-chóng.
Dĩ
nhiên, cũng có bản-năng, tình-dục, biết
con người yếu đuối, nhưng luôn luôn
cảnh-giác, cố gắng kềm-chế không
biến thành đồ chơi của bản-năng.
Cho
nên :
A/-
Người chơn tu biết yêu đạo, là người
nhập-thế :
-
Không trốn tránh đời để vui hưởng
cái đạo riêng tư, không khinh đời là phù-du
giả trá.
-
Đời không là tấn bi-kịch mà đứng
ngoài làm khán giả hay khách-bàng-quan, mà người
chơn tu phải là diễn viên, có vai trò trên sân-khấu.
Epitète
đã nói : Bạn hãy nhớ, bạn là
diễn-giả của tán kịch mà tạo-hoá đã
đặt ra cho bạn. Vì thế mà người
chơn tu yêu đạo sống trà trộn với
đời như men trong bột để nhào Đời
vào theo với Đạo, đưa đến
hạnh-phúc chơn thật.
Nhập
thế
không phải là tự ép mình để sống
với Đời mà là thật sống tức là
nhập-thế rồi. Người chơn tu yêu
đạo vui lòng sống trong cuộc thế, vì Đạo
Chơn Chánh không phải là thoát-ly, mà là cái Đạo
thực hiện ngay ở trong đời, giữa
muôn người. Người chơn-tu yêu Đạo
nhập-thế để thi hành cái Đạo, làm
sáng cái Đức của mình và của người
khác.
B/-
Người chơn tu yêu đạo, nhập-thế
để rồi xuất-thế :
-
Xuất-thế không có nghĩa là lãnh-đạm hay
thoát-ly cuộc thế, mà là không bám vào
những cái giá trị tạm-bợ ở đời
nầy. Đời chỉ là con đường để
tiến tới cái gì cao cả hơn, có giá-trị
tuyệt-đối nên người yêu đạo
vẫn sống trong đời mà không lệ
thuộc vào đời. Biết dùng đời mà không
để đời dùng mình.
-
Xuất-thế để có cái nhìn sáng tỏ,
rồi sau đó đem cái Đạo nhập vào
thế, mà cái Đạo Chơn-Chánh là cái Đạo
nhập thế. Ta hãy suy-gẩm huyền-truyện
« Người tù nhân trong hang đá » của
Platon: Những người tù bị trói, nhốt
trong hang đá, chỉ day mặt vào tường nên
không làm sao nhìn thấy những đồ vật sau
lưng, mà chỉ thấy cái bóng rọi lên tường
do ánh sáng sau lưng phản chiếu, nên phán-đoán
sai cả. Đến khi được cho ra khỏi
hang đá, nhờ ánh sáng mặt trời họ
nhận ra được rõ ràng các sự vật;
nhờ đó mà không còn lầm lẫn nữa »
Huyền
truyện nầy ngụ ý:
«Những
người tu bị giác-quan tình-dục trói buộc
vào cái phù-du ảo-ảnh nên lấy bóng làm
thật. Lòng đam mê không cho phép họ giải phóng
được tinh-thần để tìm thấy
Đạo. Nhưng khi thấy được mặt
trời, nghĩa là họ đã xuất-thế, giác-ngộ
tìm thấy được chơn-lý, rồi trở
lại đời nhập-thế để
tổ-chức xã-hội theo tinh-thần Đạo. »
Truyện
«Diogène chán đời» cũng nằm trong vấn-đề :
« Diogène khinh chê tiền-tài, danh-vọng, ông
đi chân đất, tài sản của ông chỉ có
một cái thùng to để ngủ và cái muỗng
lớn để uống nước. Một hôm, ông
gặp một em bé lấy tay bụm nước
để uống, thấy vậy rồi ông tự
nghĩ: tại sao ta có hai tay, ta không biết dùng nó
để bụm nước mà uống, lại
phải đi dùng đến cái muỗng?
Ông
rất khinh-miệt đời, một hôm ông
lang-thang ban ngày, giữa thành phố Athène với cái
lồng đèn trên tay. Có người hỏi ông lý
do nào làm thế? Ông trả lời : « Tôi
đi tìm một người (chơn-lý). Theo ông, ông
là người xuất-thế mà không muốn
nhập-thế, thành ra ông thoát-ly thế-tục và
kiêu-hãnh.
Trái
lại Socrate, tượng-trưng thái-độ
« Yêu-đạo »; Ông không khinh đời,
chỗ nào cũng có ông, chỗ nào người ta cũng
gặp ông, các nơi hội họp, các cuộc vui
chơi, lễ bái, lúc nào cũng là cái dịp dùng
để khuyên dạy đạo-lý cho mọi người :
« Đời ông là đời tranh-đấu,
chống lại những tà-thuyết của phái hoài-nghi,
ngụy-biện. Nhưng ông cũng xuất-thế,
biết tự kềm chế tiết-độ, luôn
luôn giữ
được chánh-tâm, cương-trực và bình-tỉnh,
nhận cái chết do thù oán ghen ghết gây nên. »
Cho
nên, kiểm-điểm lại những lời
dạy của Thiêng-liêng qua Thánh-ngôn Thánh-giáo trong
Đạo Cao-Đài, trên nhiều lãnh-vực trước
mắt, như :
-
Nào công-phu tịnh-luyện, nhập-định,
tham-thiền
-
Nào bố thí, thi ân, giúp đời tế chúng trên
phương diện vật-chất .
-
Nào tứ thời cúng lạy, tụng niệm kinh
lễ.
-
Nào là trường-trai, giới-sát, thả cá, phóng
chim.
-
Nào là khuyên người đời theo đường
Chân-Đạo học hỏi giáo-lý trên phương-diện
phổ-độ nhơn-sanh
-
Nào tu-thân tề-gia ở phần nhơn-đạo.
-
Đạo-lý, pháp-môn thì vô lượng, căn-trí
chúng sanh cũng vô-lượng. Nếu đem ra
biện-luận thì dầu có sống đến ngàn
tuổi, cũng chưa hết pháp-môn. Nhưng không
vì lý do đó mà con người không thể học
đạo, hành đạo và đắc đạo
được.
-
Gương Huệ-Năng dốt-đặc mà còn có
thể trở thành Lục-Tổ kia mà.
-
Cũng như, một nhà máy nguyên-tử, có biết
muôn triệu bộ phận li-ti, nhưng khi cần
chỉ biết một chỗ trọng-yếu của
nó là nhận cái nút nhỏ, tức là hằng
triệu bộ phận đều chuyển động
tức thì.
-
Trên đường Đạo cũng thế.
Phải biết cái bí-yếu của nó. Việc trước
tiên là làm thế nào hoàn-thiện-hóa bản thân mình
rồi mới nói đến các hành-động khác.
Thế
nào là Hoàn-Thiện-Hóa bản-thân?
Nói
đến Thiện
nghĩa là khác với Ác.
Sở
dĩ con người bị luân-hồi trong chốn mê-đồ,
nguyên do là tại tạo các điều Ác.
Điều
Ác ấy từ đâu đến?
Do ý-nghĩ, mắt thấy, miệng nói rồi
mới thành hành-động :
Mắt :
Xem không chánh, sẽ khiến Ý-Dục loạn-động.
Ý:
Nghĩ Ác, là nguồn gốc phát xuất những
lời Ác đưa đến hành-đột Ác.
Trong
kiếp làm người, hằng ngày chung đụng,
tiếp-xúc biết bao sự vật.
Người tu phải cần kiểm-điểm
chủ-động và chế-ngự mắt, tai, ý,
khẩu và thân.
Đừng
chủ-quan cho rằng mọi hành-động của
mình đều là đúng, rồi dễ tánh nuông chìu
cái tự-cao tự-đắc với cái sai, rồi
đi vào con đường tội lỗi. Vì Thiêng-Liêng
có dạy: « Rất đổi hàng thiên-Tôn
như : chư Tiên, Phật, Thánh khi lâm trần,
mang nhục-thể, nếu không tu kỷ theo
đường Chánh-Đạo, vẫn bị đọa
như thường, chớ đừng tưởng
rằng mình là hàng nguyên-căn Thiên-phong, Thiên-mạng
mà khỏi luật ấy đâu »
(Trích đàn cơ Ngọ-thời 14/6
Kỷ-Dậu tại
Vạn-Quốc-Tự của Đức Quan-Thế-Âm
Bồ-Tát).
Từ
trong « cái nhìn của mắt » đã định
nhiều ý nghĩa;
Một
cái nhìn với lòng bác-ái, thương hại kẻ
cô đơn khổ sở, động mối
từ-tâm, rủ lòng trắc-ẩn, đến
giọt lệ nhỏ rơi!
Rồi
cũng một cái nhìn với ý đố-kỵ,
ghen-hờn, xuyên-tạc, khiêu-khích hận-thù,
tức giận.
Rồi
đến một lời nói có thể xoa dịu
nổi khổ đau của người
bạc-số hoặc trong cảnh khốn cùng
rủi-ro tai nạn.
Một
lời nói sẽ an-ủi cứu sống mạng người
trước khi muốn tự sát.
Một
lời nói khích-lệ người vào đường
tu-hành công-quả giúp đời.
Một
lời nói làm cho người nên danh-thành sự
nghiệp
Một
lời nói làm cho những kẻ xa lạ chưa
từng quen biết trở nên người bạn
tốt.
Cũng
thời một lời nói làm cho người với
người rẽ chia thù-hận tàn-sát lẫn nhau.
Cũng
một lời nói làm cho nhiều người vong-gia
bại-sản, chết-chóc, đau-thương.
Từ
lời nói đi đến hành-động cũng
vậy. Từ sự nhìn, ý nghĩ, lời nói đến
hành-động, mỗi cái đều có phần
Thiện và Ác.
Để
kết luận
Người
chơn tu, thương Thầy mến bạn phải
hoàn-thiện-hóa bản thân, giờ khắc nào cũng
phải kiểm điểm, chọn-lọc, phân-tách,
từ lời nói đến hành-động để
rồi làm gương tốt hầu dẫn độ
nhơn-sanh cùng tiến lên con đường toàn-thiện.