Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
Đôi
điều về nhạc lễ và xướng lễ Cao
Đài LÊ
ANH DŨNG Ban nhạc lễ ở Ṭa thánh Tây Ninh (Ảnh
Allen Wong, Jan-2001) 1. Nhạc lễ Cao
Đài và nhạc tài tử Nam Kỳ Có
người nghĩ rằng nhạc tài tử Nam Kỳ là
nguồn gốc của nhạc lễ Cao Đài. Theo
nhạc sĩ Vĩnh Bảo, nhạc tài tử Nam Kỳ phát
xuất từ nhạc lễ Nam Kỳ. Nhạc tài tử
Nam Kỳ thường không dùng hết bảy bài c̣
của nhạc lễ. V́ lư do thời gian, người ta có
thể chọn một vài bài trong số đó. Chẳng
hạn: -
Họ giao ước dạo một chút xàng xê rồi
chuyển sang ba bài hạ đăng tiểu, hoặc
bỏ xàng xê chỉ đàn ba bài ngũ đối hạ,
long đăng, tiểu khúc, gọi tắt là hạ
đăng tiểu. -
Hoặc họ giao ước từ nam xuân, bắt qua đảo
ngũ cung, rồi chuyển sang hai lớp trống xuân. -
Hoặc họ giao ước từ nam xuân, sang nam ai,
rồi bắt qua đảo ngũ cung. -
Hoặc họ giao ước từ nam xuân, sang nam ai,
rồi bỏ đảo ngũ cung mà chuyển qua hai
lớp trống ai. Trong
khi đó, một thời cúng của đạo Cao Đài
theo đại lễ thường kéo dài hơn hai giờ,
và v́ thế sử dụng đủ hết cả bảy
bài c̣. Gọi là bài c̣ v́ dùng hai
loại đàn kéo là đàn nhị (đàn c̣) và đàn
gáo. Theo
nhạc sĩ Vĩnh Bảo, khi chơi nhạc tài tử
Nam Kỳ, người ta không cần mặc áo dài, đội
khăn đóng. Nhưng khi tấu nhạc lễ th́
phải đầy đủ khăn đóng, áo dài.
Vậy cần nói cho đúng, nhạc lễ Cao Đài
bắt nguồn từ nhạc lễ Nam Kỳ. CHÚ: Phỏng vấn
nhạc sư Vĩnh Bảo tại nhà riêng, qua điện
thoại, ngày 03-11-1999, lúc 14.30. 2. Nhạc lễ Cao
Đài bắt nguồn từ nhạc lễ Nam Kỳ Về
h́nh thức, nhạc lễ Cao Đài cũng dùng các
nhạc cụ dân tộc như nhạc lễ Nam Kỳ.
Nhạc lễ Cao Đài và nhạc lễ Nam Kỳ đều
buộc ban nhạc đội khăn đóng, mặc áo dài
truyền thống nghiêm túc. Về
nội dung, nhạc lễ Nam Kỳ có điệu nam xuân
(giọng không buồn), nam ai (giọng buồn), có vỗ
trống cơm theo lớp trống xuân, trống ai. Người
ta gọi là ba bản nam, gồm: -
Bản nam xuân cộng hai lớp trống xuân (hai lớp mười
lăm câu). -
Bản nam ai cộng hai lớp trống ai (hai lớp mười
lăm câu). -
Rồi là đảo ngũ cung (tức là đổi tông
chủ âm bằng cách thay đổi năm cung ḥ, xự,
xang, xê, cống). Kế
đó là bảy bài, cũng gọi là bảy bài c̣,
gồm: xàng xê, ngũ đối thượng, ngũ đối
hạ, long ngâm, long đăng, vạn giá, và tiểu khúc.
Theo các nhạc sư của Toà thánh Tây Ninh, bảy bài
ấy có ư nghĩa như sau: 1.
Xàng xê: nghĩa là đưa qua trộn lại, diễn
tả thời kỳ hỗn độn sơ khai. 2.
Ngũ đối thượng: nghĩa là ngũ khí thanh
nhẹ thăng lên làm trời. 3.
Ngũ đối hạ: nghĩa là ngũ hành trọng trược
giáng xuống làm đất. 4.
Long đăng: rồng bay lên, tượng cho khí dương. 5.
Long ngâm: rồng bay xuống, tượng cho khí âm. 6.
Vạn giá: nghĩa là muôn sự vạn vật đă
định h́nh. 7.
Tiểu khúc: nhỏ và vụn vặt; các sự tế vi cũng
đă có tên. Như
vậy, các nhạc sư Cao Đài đă đưa vào
nhạc lễ truyền thống Nam Kỳ một ư nghĩa
vũ trụ quan. Từ ư nghĩa đó, ban nhạc
chỉ đàn đủ bảy bài khi nào có đại
lễ hiến đức Chí tôn (ngôi Thái cực) hay đức
Phật mẫu (ngôi Vô cực), v́ hai đấng là
Tạo hóa sinh dưỡng vạn vật. CHÚ: Đền
thánh ở Ṭa thánh Cao Đài Tây Ninh thờ đức
Ngọc Hoàng Thượng đế, cũng là Thái Cực
Thánh hoàng. Báo Ân từ thờ đức Phật mẫu,
cũng là Vô Cực Từ tôn Diêu Tŕ Kim mẫu. Cơ
quan chuyên trách nhạc lễ của Ṭa thánh Tây Ninh
gọi là Bộ Nhạc, do Hộ pháp Phạm Công Tắc
thành lập ngày 04-5-1951, gồm chín bậc từ thấp
lên cao như sau: nhạc sĩ, bếp nhạc, cai nhạc,
đội nhạc, quản nhạc, lănh nhạc, đề
nhạc, đốc nhạc, và nhạc sư. Đại
lễ hiến Tam giáo Tổ sư (Khổng Tử, Thích Ca,
Lăo Tử) và Tam trấn Oai nghiêm (Quan Thánh, Quan Âm, Thái
Bạch, thay mặt cho Tam giáo ( Nho, Thích, Lăo) th́ chỉ
đàn năm bài, bỏ bớt hai bài 5 và 6 là long ngâm và
vạn giá. Tiểu
lễ hiến các đấng khác hoặc khi sóc vọng
chỉ đàn ba bài 3, 4, 7 là ngũ đối hạ, long
đăng, tiểu khúc. 3. Cách phối hợp
các bài bản trong đại lễ Cao Đài Có
thể tóm tắt như sau: 1.
Khi vị Giáo sư xướng: Nhạc
tấu huân thiên! th́ ban nhạc trổi bài Tiếp
giá nghinh thiên. Sau
đó, ban nhạc đàn bảy bản: xàng xê, ngũ
đối thượng, ngũ đối hạ, long
đăng, long ngâm, vạn giá, tiểu khúc. Khi
nhạc vừa chuyển đến lớp xề của
bản xàng xê th́ Giáo sư xướng: Chỉnh
sát cúng phẩm! Khi
ban nhạc đàn hết bản tiểu khúc th́ Giáo sư
xướng: Nghệ hương án
tiền! 2.
Khi Giáo sư xướng: Thành kỉnh
tụng niệm hương chú! th́ ban nhạc
trổi điệu nam ai. Kinh sẽ được đọc
theo nhịp hai. [Theo Giáo sư Tiến sĩ
Trần Văn Khê, cách đọc kinh nhịp hai của Cao
Đài cũng thể hiện tính dân tộc.] Thí
dụ: Mùi
hương \ lư ngọc \ bay xa, Kính
thành \ cầu nguyện \ tiên gia \ chứng ḷng... 3.
Khi Giáo sư xướng: Thành kỉnh
tụng Ngọc Hoàng kinh! th́ ban nhạc trổi điệu
nam xuân. 4.
Khi Giáo sư xướng: Điện tiên
hoa! th́ ban nhạc trổi điệu đảo ngũ
cung trong lúc các đồng nhi thài bài Dâng hoa. Thài: đọc
với giọng kéo dài ra. CHÚ: Thài
là một từ Việt cổ. Theo Huỳnh Tịnh Paulus
Của, Đại Nam quấc
âm tự vị,
Tome I. A-L. Sài G̣n: Imp. Rey, Curiol & Cie., 1895, tr. 358, thài
hay ca
thài
là “ca
theo điệu chúc.”
4. Về cách xướng
lễ Cao Đài Trong
một lễ cúng đ́nh ở Nam Kỳ, người
đứng xướng các mệnh lệnh điều
khiển cuộc lễ diễn tiến nhịp nhàng
gọi là lễ sanh (học tṛ lễ). CHÚ: Sơn
Nam, Thuần
phong mỹ tục Việt Nam (quan, hôn, tang, tế). Nxb Tổng hợp
Đồng Tháp, 1994, tr. 165.
Trong
nghi lễ Cao Đài, lễ sanh là chức sắc cấp chót
hết của Cửu trùng đài. Người phụ trách
dâng lễ phẩm trong buổi lễ Cao Đài gọi là
lễ sĩ. Hiểu lễ sĩ như người
phụ giúp cho lễ sanh. Lễ sĩ không phải là
chức sắc. Việc
xướng lễ trên nguyên tắc phải do một Giáo
sư điều khiển, đúng lệ phải là Giáo sư
phái Ngọc, v́ Ngọc là phái Nho. Việc lễ mà giao cho
phái Nho đảm trách th́ hoàn toàn hợp lẽ. Lời
xướng trong nghi lễ truyền thống Nam Kỳ và
lời xướng trong nghi lễ Cao Đài dĩ nhiên không
hoàn toàn giống nhau ở số câu, không rập khuôn
từng lời từng chữ. Nhưng xét về phong cách,
có thể nói lời xướng ở Cao Đài cũng là
một khía cạnh phản ánh tính dân tộc trong sinh
hoạt tâm linh dân gian Nam Kỳ. Để
so sánh, có thể lược dẫn ra đây ít câu tiêu
biểu giữa cách xướng lễ Nam Kỳ (NK) và Cao
Đài (CĐ): –
NK:
Bài ban ban tề. (Đứng vào
vị trí của ḿnh.) Chánh
tế tựu vị. (Vị chủ tế bước
vào vị trí.) Bồi
tế tựu vị. (Vị phụ tá chủ tế bước
vào vị trí.) CĐ:
Nội nghi ngoại nghi tựu
vị. (Nội nghi ngoại nghi vào vị trí.) Thiên phong dĩ hạ các tư kỳ vị. (Từ chức sắc thiên
phong trở xuống tín đồ tùy theo phẩm vị
đứng vào vị trí.) –
NK:
Củ sát tế phẩm. (Xem xét
lễ phẩm trên bàn thờ.) CĐ:
Chỉnh sát cúng phẩm.
(Xem xét lễ phẩm trên bàn thờ.) –
NK:
Niệm hương viên tựu
vị. (Người dâng nhang vào vị trí trước
bàn thờ.)
CĐ:
Nghệ hương án tiền.
(Người dâng nhang vào vị trí trước bàn
thờ.) –
NK:
Phục vị. (Quỳ
xuống.)
CĐ:
Giai quỳ. (Tất cả cùng
quỳ xuống.) –
NK & CĐ: Phần hương.
(Đốt nhang.) –
NK:
Thượng hương.
(Cắm nhang trên bàn thờ.)
CĐ:
Điện hương.
(Cắm nhang trên bàn thờ.) –
NK & CĐ: Cúc cung bái.
(Lạy.) v.v... Khi
Giáo sư Cao Đài xướng Nghệ
hương án tiền (người dâng nhang vào
vị trí trước bàn thờ) th́ chữ nghệ
có nghĩa là đi đến. Câu này giống
với lời xướng của viên chấp sự ở
đàn tế giao (tế trời đất) của
triều đ́nh Huế. Nhưng v́ mời nhà vua ra trước
bàn thờ tế trời đất nên hai viên chấp
sự phải thêm chữ Tấu, câu
xướng là: Tấu nghệ hương
án tiền. CHÚ: Đỗ
Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, Những đại lễ và vũ khúc
của vua chúa Việt nam.
Sài G̣n: Nxb Hoa lư, 1968, tr. 31. Khi
Giáo sư Cao Đài xướng Điện
tiên hoa, điện tiên tửu, điện tiên trà làm
hiệu lệnh dâng cúng tam bửu (hoa, rượu, trà), th́
chữ điện này có nghĩa là
cúng tế. Chữ điện này cũng
được xướng trong lễ tế giao. Khi làm
lệnh dâng cúng lụa trắng, viên chấp sự xướng:
Điện bạch. CHÚ: Đỗ
Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa
Việt Nam.
Sài G̣n: Nxb Hoa lư, 1968, tr. 49. 5. Về cách dâng
lễ Trong
cách dâng lễ phẩm lên bàn thờ, người dâng
lễ bước đi nhún nhảy như múa. Ở cung
đ́nh Huế, có phép đi lục cúng. Có người
cho rằng lục cúng là do các nhà sư Ấn Độ
truyền sang. Các chùa khi cúng có hai nhà sư mặc cà sa,
đội mũ thất phật, tay múa, chân vẽ chữ
Hán, nh́n rất hoa mỹ, nghiêm trang. Gọi là lục cúng
v́ phải múa sáu lần để dâng lên Tam bảo sáu món: a.
dâng b́nh hương: chân đi kiểu chữ Nhật; b.
dâng b́nh hoa: chân đi kiểu cái hoa hồi một cánh
(hoa hồi là hoa ǵ?); c.
dâng đèn: chân đi kiểu chữ Á; d.
dâng trà: chân đi kiểu chữ Thủy; e.
dâng quả: chân đi kiểu chữ Vạn; f.
dâng thực (bánh bột trộn đường): chân
đi kiểu chữ Điền. CHÚ: Đỗ
Bằng Đoàn và Đoàn và Đỗ Trọng Huề, Những đại
lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam. Sài G̣n: Nxb Hoa lư, 1968, tr. 451-452. Có
lẽ nghi lễ ở đồng bằng Nam Kỳ không
khỏi chịu ảnh hưởng của lục cúng. Lễ
sanh Nam Kỳ mặc áo, đội măo như nho sĩ đậu
Tú tài ngày xưa. Có khi họ đi điệu văn, khi
đi điệu vơ (dắt cờ sau lưng). Họ đi
mỗi hàng hai người: người đi trước
nâng ngọn đèn sáp (đèn cầy, nến); người
đi sau nâng cái đài đựng lễ phẩm. Họ
đi nhún nhảy, có khi chân đặt theo chữ Đinh;
mở ra theo chữ Bát; kết thúc
chân đá lên theo chữ Tâm. CHÚ: Sơn
Nam, Thuần
phong mỹ tục Việt Nam (quan, hôn, tang, tế). Nxb Tổng hợp
Đồng Tháp, 1994, tr. 173.
Lễ
sĩ Cao Đài khi dâng lễ cũng đi thành hai cặp
(bốn người), cũng đội măo như nho sĩ
đậu Tú tài ngày xưa. Hai người đi trước
bưng cặp đèn; hai người đi sau bưng
cặp đài. Lễ sĩ Cao Đài khi đi cũng nhún,
đá chân. Khi hiến đại lễ dâng Trời
phật th́ chân vẽ chữ Tâm. CHÚ: Đài:
gọi đủ là chân
đài, là món đồ tiện bằng cây hoặc
bằng thứ ǵ khác, làm như cái chân đỡ vật
khác. Đài trầu: Đồ đựng trầu có chân. (Huỳnh
Tịnh Paulus Của, Đại Nam quấc âm tự
vị, Tome I, 1895: tr. 263.) Lễ
sĩ dâng hoa, chân vẽ chữ Tâm. Ṭa thánh Tây Ninh.
Ảnh Gabriel Gobron 1949. Cách
bố trí người mang hoa quả, rượu, trà (tam
bửu) lên bàn thờ (Thiên bàn) phải phù hợp cách bài
trí lễ phẩm trên Thiên bàn. Từ Thiên bàn nh́n ra, bên
trái (phía nam quỳ) bày hoa, nước lạnh; bên
phải (phía nữ quỳ) bày trái cây, nước trà. Rượu
bày giữa nước lạnh và trà. V́ thế: -
Dâng hoa quả, người bên phía nam quỳ bưng bông;
người bên phía nữ quỳ bưng trái cây. -
Dâng rượu, người bên phía nam quỳ bưng chung
rượu; người bên phía nữ quỳ bưng
nhạo rượu. -
Dâng trà, người bên phía nam quỳ bưng ấm trà;
người bên phía nữ quỳ bưng chung trà. CHÚ: Đỗ
Bằng Đoàn và Đoàn và Đỗ Trọng Huề, Những đại
lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam. Sài G̣n: Nxb Hoa lư, 1968, tr. 452. ° Tóm
lại, về văn hóa, mảnh đất Nam Kỳ đă
hiến cho đạo Cao Đài một tài sản quư
của dân tộc, đó là áp dụng nhạc lễ Nam
Kỳ vào nhạc lễ Cao Đài. Cách xướng lễ
trong Cao Đài có nét của nghi lễ Nam Kỳ, mà cũng
có chút ít của lễ tế giao ở Huế, đất
thần kinh mà đă không ít lưu dân Nam Kỳ xưa kia
từng sinh sống hay làm việc. Ngược lại, có
thể nói nhạc lễ, cách xướng lễ và dâng
lễ, cách đi chữ Tâm của Cao Đài đă
bảo tồn và phát huy thêm nhạc lễ Nam Kỳ
về mặt quy củ và tính triết lư, làm giàu thêm, tô
điểm thêm cho sinh hoạt lễ hội đầy màu
sắc tâm linh của Nam Kỳ. Khi
khảo sát thêm các bước diễn tiến một
đại lễ Cao Đài, người ta thấy rằng
nghi lễ của Cao Đài rất phù hợp với nghi
lễ truyền thống Nam Kỳ, nhưng ở Cao Đài
th́ quy củ hơn và với các đại lễ th́
mức độ tổ chức lại hoành tráng hơn
lễ cúng đ́nh, lễ kỳ yên ở Nam Kỳ rất
nhiều. Những ai đă dự lễ hội Cao Đài và
lễ hội đ́nh miếu Nam Kỳ ắt đều
cảm nhận được điều đó. V́
thế, khi đạo Cao Đài ra đời, nhạc
lễ Cao Đài đă rót vào tâm hồn người dân
Nam Kỳ những giai điệu thân thiết mà người
Nam Kỳ đă gắn bó trong các lễ hội dân tộc
ở địa phương. Đến với nghi lễ
Cao Đài, người dân không thấy sự lai căng
kệch cỡm. Đó là một yếu tố giải thích
v́ sao Cao Đài mau lẹ thu hút đông đảo tín
đồ khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh. LÊ
ANH DŨNG PHỤ
LỤC: Đạo
Cao Đài và âm nhạc dân tộc
19.00 giờ ngày 20-11-1972
(15-10 Nhâm Tư), nhân lễ đại tường Thượng
sanh Cao Hoài Sang tại Ṭa thánh Cao Đài Tây Ninh, ban
nhạc trung ương đă ḥa tấu cổ nhạc
tại Cửu trùng thiên để hiến lễ Cao Thượng
sanh. Tiếp theo, lúc 20.00 giờ là phần ḥa nhạc
của các nghệ sĩ và giáo sư trường Quốc
gia Âm nhạc Sài G̣n, do Nhạc sư, Giáo sư Nguyễn
Văn Thinh, Giám đốc Trường dẫn đầu. Trước khi ḥa
nhạc, Giáo sư Nguyễn Văn Thinh đọc bài
diễn văn bày tỏ ḷng chân thành kính mến và tri ân
một bậc hậu tổ của nền quốc nhạc
cổ truyền Việt Nam. Sau đó, các nghệ sĩ
đă khởi đầu tŕnh tấu bài Ngũ đối
hạ, lời do Cao Thượng sanh soạn, kế
tiếp là bài Ngũ đối ai do Nhạc sư
Nguyễn Văn Thinh soạn để tưởng nhớ
Cao Thượng sanh. CHÚ: Thông
tin,
số 65, ngày 30-11-1972, của Cơ quan Phát thanh Phổ thông
Giáo lư Ṭa thánh Cao Đài Tây Ninh, ronéo, tr. 16. DIỄN VĂN của
Nhạc sư, Giáo sư Nguyễn Văn Thinh, Giám đốc
sư trường Quốc gia Âm nhạc Sài G̣n, đọc
trước khi ḥa tấu cổ nhạc hiến lễ
đức Cao Thượng sanh tại Cửu trùng thiên, nhân
đại tường của đức Thượng sanh,
lúc 20.00 giờ ngày 20-11-1972 (15-10 Nhâm Tư). Kính thưa Hội thánh
Hiệp thiên, Cửu trùng và Phước thiện, Kính thưa quư vị
đại diện tôn giáo, Kính thưa quư vị
chức sắc, chức việc và toàn đạo nam
nữ, Kính thưa tang gia
hiếu quyến, Đại diện nhóm
thân hữu và tài tử quốc nhạc cổ truyền
Đô thành đến kính bái phủ phục nơi tôn
nghiêm uy nghi này hôm nay nhân lễ đại tường, tôi
tự nhận là một vinh hạnh tột bực trong
đời tôi. Vinh hạnh nhờ
được hầu hết anh em lớn nhỏ trong
giới tài tử tri âm đặt trọn ḷng tin tưởng
nơi tôi để nói lên nỗi ḷng chơn thành của
ḿnh, của giới tài tử tri âm đối với
đức Thượng sanh, người đă có công
rất lớn với ngành mỹ [nghệ?] thuật cổ
truyền nước nhà. Nhờ đức ngài
khuyến khích và chẳng nệ công khó nhọc sáng tác
để phổ biến truyền bá trong đại chúng
ham mộ cổ nhạc, những ca phẩm đặc
sắc về phương diện văn chương, nên
đă cứu văn và quân b́nh được một t́nh
thế suy kém, gần sụp đổ của nền
nhạc cổ truyền trước sức lấn áp
ồ ạt lôi cuốn của một loại nhạc
ngoại lai. Thật vậy, nếu
đức ngài đă chẳng quan tâm lưu ư đến
tiền đồ quốc nhạc th́ chỉ trong ṿng đôi
ba mươi năm là cùng, môn mỹ [nghệ?] thuật ca
nhạc điệu thính pḥng thuần túy Việt Nam
của giới tài tử chắc chắn sẽ biến
mất trên lănh thổ miền nam Việt Nam. Do vậy, để
cụ thể hóa ḷng tri ân đó và với trọng tâm nêu
cao thiên tánh [trách?] cùng công tŕnh xây dựng trong quá
khứ của đức Thượng sanh là bậc nhơn
tài của đất nước, bậc hiền sĩ ôn
ḥa thuần chính, đức cao vọng trọng hiếm có,
một thân bằng đồng môn phái cùng đức ngài
và được duyên số giao hảo hạnh ngộ
với đức ngài trên bốn mươi năm, đă
soạn lời phổ vào nhạc bản Ngũ đối
hạ. Nội dung bài ca gồm năm đoạn gọi là
Ngũ đối liên tiếp và tuần tự diễn
đạt sự trạng: kim bằng, tri âm, tao nhơn, gia
đ́nh, đạo đức, liên quan đến đức
ngài, sẽ được tấu tŕnh hiến dưng
lễ nhạc, mong sự tâm thành của giới tài
tử tri âm được chứng giám. Ngoài ra, thân hữu cũng
xin tŕnh bày kế tiếp bản ca nhạc Ngũ đối
ai để tưởng niệm đức Thượng
sanh. Phần chót lễ
vọng bái đức Thượng sanh được hoàn
tất bằng một lớp diễn xuất ca nhạc
kịch phỏng soạn nhờ cảm hứng bài ca Văn
Thiên Tường tựa “Hạng Vơ biệt Ngu Cơ” của đức ngài sáng tác
từ lâu. Trọng tâm của nhóm
tài tử tri âm là để ghi ân và đáp tạ
thạnh t́nh của đức ngài trước khi quy thiên
đă dành cho nhóm này tŕnh bày một đêm văn
nghệ nơi thánh địa mà h́nh ảnh đêm ấy
chẳng hề mờ phai trong tâm năo toàn thể. Trân
trọng cảm tạ quư vị. CHÚ: Thông tin, số 65, ngày 30-11-1972, tr. 9-10. Đôi ḍng sơ lược về tác giả Lê Anh Dũng
|
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|