THÁNH ĐƯỜNG NỘI TÂM
Tỉnh Đạo Quảng Tín, Tý thời, 11-7 Canh Tuất (12-8-1970)
Lễ khánh thành thánh đường Quảng Tín.
Thông công: Bộ phận Hiệp Thiên Đài
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam.
BẠCH PHỤNG ĐỒNG TỬ
Tệ Đệ mừng Đạo Trưởng Bảo Pháp Chơn Quân. Mừng chư chức sắc lưỡng đài và toàn thể bổn đạo. Tệ Đệ kính gởi lời mừng Đạo Trưởng Phối Sư Chủ Trưởng (1) và gởi lời thăm hiền hữu Thanh Long.(2)
Tệ Đệ hân hạnh được báo đàn, được hội ngộ cùng chư huynh tỷ trong dịp lễ khánh thành thánh đường Quảng Tín này.(3) Tệ Đệ ước mong sao ngày gần đây quê hương sớm thanh bình, cơ Đạo ngày một phát triển để cho kẻ sắc giới, người không giới (4) có dịp gặp gỡ nhau nữa.
Vắn tắt ít lời, vậy xin nghiêm đàn tiếp Trần Tổng Lý (5) giáng lâm. Xin mời hiền tỷ Bạch Tuyết (6) được phép an dưỡng tinh thần trong khi lộ trình còn mệt nhọc. Trần Tổng Lý sẽ ban ân điển cho đồng tử xuất khẩu. Tệ Đệ chào chung. Xin kiếu. Thăng.
TIẾP ĐIỂN
THI
Một dải non sông một mảnh tình
Quay về tâm sự dưới cơ linh
Tam Kỳ sứ mệnh ai đâu tá? (7)
Đem đạo vào đời cứu chúng sinh.
TRẦN HƯNG ĐẠO VƯƠNG
Bản Thánh chào chư đại diện các Hội Thánh, cơ quan Đạo, mừng Đạo Trưởng Bảo Pháp Chơn Quân,(8) chư chức sắc Lưỡng Đài,(9) toàn thể bổn đạo nam nữ. Xin mời tất cả đồng an tọa.
Bản Thánh đến trần gian giờ này với một niềm hân hoan phấn khởi, mừng ngày khánh thành thánh đường tại Quảng Tín này. Ngày sum họp các Hội Thánh toàn đạo Nam Trung biểu dương tinh thần đồng nhứt thân ái trong gia đình Đại Đạo, đó chính là ưu điểm đáng nêu cao. Bởi chính tinh thần đồng nhứt hy sinh ấy mà bổn đạo nơi này mới xây cất nổi thánh đường uy nghi trang trọng này, và cũng chỉ có tinh thần đồng nhứt ấy giữa các chi phái mới mong làm tròn sứ mạng trọng đại đem đạo vào đời, phục hưng tinh thần đạo đức cố hữu,(10) hòng (11) hoán cải (12) nhơn tâm, cải tạo xã hội, cứu vãn đất nước thoát cảnh điêu linh (13) tan tác, xây dựng lại nếp sống thanh bình đạo lý cho con người.
Nhơn đây, Bản Thánh thấy cần nhắc lại cho chư hiền: Người hướng đạo (14) phải ý thức sứ mạng của mình, phải ưu tư trách nhiệm hướng đạo, lãnh đạo quần sinh,(15) phải tiên kiến,(16) tiên liệu (17) mọi lẽ tồn vong suy thịnh, phải biết nhận xét tổng quát, nhìn về mọi vấn đề xa xăm mới mong đưa cơ Đạo đạt đến kết quả thành tựu.
Điều cấp thiết ngày nay, ở đây nói riêng Hội Thánh Truyền Giáo nhưng chung cho Đại Đạo, làm sao tập trung mọi khả năng tâm lực vào việc đào luyện người chức sắc Thiên ân, tạm đủ khả năng chấp hành đạo pháp trong hiện tại. Một mặt đặt kế hoạch đoản kỳ,(18) trường kỳ,(19) mở tu viện, tuyển chọn tu sinh, tu sĩ, đào luyện thành các giáo sĩ để truyền đạo, hành đạo tương lai. Một mặt bất phân chi phái, cùng nỗ lực xây dựng phát huy giáo lý làm sáng tỏ chủ thuyết dung hòa tổng hợp trên tinh thần Tam Giáo Quy Nguyên, Vạn Giáo Nhứt Lý của Đại Đạo, cùng nỗ lực kiến tạo (20) các cơ sở Hội Thánh tạm đầy đủ để có nơi thực hiện các điểm nói trên. Xây dựng cơ cấu đầu não kiện toàn (21) là giúp cho quyền lãnh đạo Hội Thánh thêm uy nghi và nhất trí, v.v… Đó mới chính là điểm cần yếu.
Ngoài ra, việc khuếch trương lớn mạnh ở địa phương cũng rất hữu ích, nhưng trước hoàn cảnh cơ Đạo hiện thời, chỉ còn là một thứ yếu mà thôi. Dầu vậy, nơi Quảng Tín này cũng như những nơi khác, trong một tình thế đặc biệt, bổn đạo vùng này phải chịu bao cơ cực trong hoàn cảnh di cư tị nạn, bởi thiên tai chiến họa dồn dập đưa đến, nhưng vẫn một lòng hy sinh cao độ, góp sức góp công xây dựng nên ngôi thánh đường quy mô này. Với tinh thần tự cường bất tức,(22) con người đạo đã vượt qua mọi nghịch cảnh. Tinh thần ấy đáng khích lệ và đáng ngợi khen.
Bản Thánh đến để chấp nhận cho tinh thần ấy, ghi công chung cho Giáo Sư Thái Phẩm Thanh,(23) chư chức sắc Lưỡng Đài, chư chức vị và toàn thể bổn đạo nam nữ. Ghi công chung mới là phần thưởng cao đẹp nhứt, nói lên công đức hy sinh cho lý tưởng, cho Giáo Hội, chớ không riêng cho cá nhân.
Giờ đây, thánh đường ngoại giới (24) đã an bài,(25) toàn đạo hãy quay về xây dựng thánh đường nội tâm,(26) bởi nơi ấy Thầy hằng ngự và bốn phương dễ dàng chung về. Hãy cố gắng xây dựng thánh đường nội tâm được chắc chắn, thêm uy nghi xán lạn. Thánh đường nội tâm mới là nhà chung chi phái, là kỳ đài cờ Đạo trương cao vậy. Mọi việc tùy ý kiến Tỉnh Đạo và quyết định Hội Thánh tự liệu.
THI
Liệu sao cho đáng bậc tu hành
Đại Đạo Tam Kỳ được sáng danh
Diệu pháp xóa tan lòng uất hận
Huyền cơ dập tắt lửa hờn ganh.
Trời Nam vận chuyển gầy Nam địa
Đất Việt mưu toan mở Việt thành
Đem lại nhơn gian đời thánh đức
Trung Hưng sứ mạng khúc ca thanh.
BÀI
Thanh phong minh nguyệt hữu tình (27)
Không gian mờ ảo bóng hình Khuôn Thiêng.(28)
1. Tay Tạo Hóa diệu huyền sắp đặt
Cõi dinh hoàn (29) không sắc tương quan (30)
Đêm thu gác áng mây vàng
Trần trung (31) nhẹ gót cơ loan (32) bút đề.
2. Nhân thế hỡi! Đâu về nhân bản? (33)
Sứ mạng ơi! Sao đáng sứ đồ? (34)
San hà vạn sắc điểm tô
Trung Châu (35) một cõi diễn phô Đạo Trời.
3. Mấy mươi năm gặp thời tao loạn (36)
Biết bao điều quốc nạn thiên tai
Cơ đồ một gánh trở day
Một dòng Bến Hải chia hai nẻo đường.
4. Cuộc thử thách dặm trường thiên lý
Cờ xứng tay chiếu bí song xa
Thử xem kỳ thủ (37) đâu là
Tay nào tạo thế nhân hòa ngày nay.
5. Kìa Trường Sơn dặm dài hùng vĩ
Nọ Ngũ Hành (38) tú khí (39) uy nghi
Ngày nào Ngũ Phụng Tề Phi (40)
Bây chừ (41) mấy bực vinh quy (42) giúp đời.
6. Thế đã loạn tùy thời xử thế
Đạo phục hưng quốc thể trung hưng (43)
Phục hưng đạo lý tinh thần
Mở cơ tận độ muôn dân hưởng nhờ.
7. Hỡi sứ mệnh còn chờ chi đó
Này anh em chớ có lãng quên
Thế gian ước vọng hòa bình
Hòa bình cũng chỉ do mình mà thôi.
8. Tâm đã động tình đời phải động
Tâm tỉnh rồi tình trống không không
Không chấp ngã, không dị đồng
Bắc Nam hiệp mặt, Tây Đông chung đường.
9. Hãy tự lực, tự cường, tự tín
Có tu tề, (44) quốc chính (45) mới yên
Bên trong nội giới chưa tuyền (46)
Hòa bình là thế láng giềng mang cho.
10. Đại Đạo tạo con đò cứu khổ
Hướng đạo cần tự độ độ tha
Năm chi bảy phái hiệp hòa
Trương cờ Đại Đạo xây tòa vạn linh.
Sau đây, Bản Thánh khuyên chư chức sắc, bổn đạo sở tại Quảng Tín nên lưu ý: Nguyên do phát khởi tâm đạo thành lập nên ngôi thánh đường nguy nga đồ sộ này. Văn hóa, phước thiện có phát triển được thì Tỉnh Đạo mới vững vàng phát huy giáo lý của Đại Đạo. Mọi việc nên do chấp hành quyền pháp của Hội Thánh mà lãnh đạo.
(…)
Bản Thánh ban ơn lành chung tất cả. Xin giã từ. Thăng.
*
SUY NIỆM
Trong thánh giáo trên đây, Đức Thánh Trần dạy chung cho các hàng môn đệ Cao Đài năm trọng điểm như sau:
1) Người hướng đạo phải ý thức sứ mạng của mình, phải ưu tư trách nhiệm hướng đạo, lãnh đạo quần sinh, phải tiên kiến, tiên liệu mọi lẽ tồn vong suy thịnh, phải biết nhận xét tổng quát, nhìn về mọi vấn đề xa xăm mới mong đưa cơ Đạo đạt đến kết quả thành tựu.
2) Điều cấp thiết ngày nay, (…) chung cho Đại Đạo, làm sao tập trung mọi khả năng tâm lực vào việc đào luyện người chức sắc Thiên ân, tạm đủ khả năng chấp hành đạo pháp trong hiện tại.
3) Một mặt đặt kế hoạch đoản kỳ, trường kỳ, mở tu viện, tuyển chọn tu sinh, tu sĩ, đào luyện thành các giáo sĩ để truyền đạo, hành đạo tương lai.
4) Một mặt bất phân chi phái, cùng nỗ lực xây dựng phát huy giáo lý làm sáng tỏ chủ thuyết dung hòa tổng hợp trên tinh thần Tam Giáo Quy Nguyên, Vạn Giáo Nhứt Lý của Đại Đạo, cùng nỗ lực kiến tạo các cơ sở Hội Thánh tạm đầy đủ để có nơi thực hiện các điểm nói trên.
5) Giờ đây, thánh đường ngoại giới đã an bài, toàn đạo hãy quay về xây dựng thánh đường nội tâm, bởi nơi ấy Thầy hằng ngự và bốn phương dễ dàng chung về. Hãy cố gắng xây dựng thánh đường nội tâm được chắc chắn, thêm uy nghi xán lạn. Thánh đường nội tâm mới là nhà chung chi phái, là kỳ đài cờ Đạo trương cao vậy.
Hướng về một trăm năm đạo Cao Đài, xin cầu nguyện rằng năm trọng điểm trên đây sẽ được các hàng môn đệ Cao Đài… suy niệm thấu suốt, để rồi cùng nhau đồng tâm hiệp sức đưa ra chương trình cụ thể, xây dựng kế hoạch rõ ràng và thực thi tích cực.
VĂN UYỂN
Huệ Khải chú thích (13-3-2014):
(1) Tiền bối Huệ Lương Trần Văn Quế (1902-1980), quả vị Quảng Đức Chơn Tiên.
(2) Tiền bối Thanh Long Lương Vĩnh Thuật (1918-1982) và tiền bối Bạch Phụng Lê Văn Phụng (1915-1935) vốn là hai vị trong nhóm Tứ Linh Đồng Tử thọ Thiên mệnh ra mở Đạo tại Trung Kỳ (1934).
(3) Nay là thánh đường Quảng Nam (thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam). Quảng Tín là một tỉnh cũ ở ven biển Trung Trung Bộ Việt Nam. Sắc lệnh 162-NV ngày 31-7-1962 của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa chia tỉnh Quảng Nam thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín, lấy sông Rù Rì làm ranh giới. Tháng 2-1976, tỉnh Quảng Tín được hợp nhất với Quảng Nam và Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ ngày 06-11-1996 Đà Nẵng được tách ra làm thành phố trực thuộc trung ương.
(4) Người không giới: Người cõi không (cõi siêu hình), tức là các Đấng thiêng liêng.
(5) Đức Trần Hưng Đạo là Tổng Lý Vô Vi của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài.
(6) Tiền bối Bạch Tuyết Lê Ngọc Trang (1918-1986), quả vị Quán Pháp Chơn Tiên.
(7) Tá: Từ đặt cuối câu hỏi, cũng như: hả, hở, hử? Người xưa cảnh cũ nào đâu tá? (Bà Huyện Thanh Quan: Cảnh cũ còn đây mà người xưa đâu rồi hở?)
(8) Tiền bối Huỳnh Chơn Tạ Đăng Khoa (1904-1973).
(9) Lưỡng Đài 兩臺: Hai Đài, gồm Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài.
(10) Cố hữu 故有: Vốn có từ trước, sẵn có (existing).
(11) Hòng: Có lòng mong mỏi đạt được việc gì. Thơ cổ: Cái vòng danh lợi cong cong, / Kẻ hòng ra khỏi, người mong chui vào.
(12) Hoán cải 換改: Thay đổi từ xấu thành tốt.
(13) Điêu linh 凋零: Suy bại, tàn tạ, xác xơ, rã rời (decayed).
(14) Người hướng đạo 向導: Người dẫn dắt đạo hữu (those who lead their brethren).
(15) Quần sinh (sanh) 群生: Cũng như chúng sinh 眾生, con người nói chung (all living beings, all human beings).
(16) Tiên kiến 先見: Thấy trước những gì có thể xảy ra (to have the foresight, to see what will or might happen in the future).
(17) Tiên liệu 先料: Đoán trước, toan tính trước, dự liệu 預料, dự đoán 預斷 (to anticipate something).
(18) Đoản kỳ 短期: Kỳ hạn ngắn (short term).
(19) Trường kỳ 長期: Dài hạn (long term).
(20) Kiến tạo 建造: Xây dựng (to construct something).
(21) Kiện toàn 健全: Khỏe mạnh, vững vàng tốt đẹp (robust).
(22) Tự cường bất tức 自強不息: Chính mình dõng mãnh, không biết ngừng nghỉ vì mỏi mệt. Đại Tượng Truyện quẻ Kiền có câu: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức. 天行健, 君子以自強不息: Trời vận hành mạnh mẽ, quân tử nhân đó mà tự mình cố gắng mạnh mẽ không ngừng. (The movement of heaven is full of power. Thus, the superior man makes himself strong and untiring.)
(23) Tiền bối Phối Sư Thái Phẩm Thanh (thế danh Mai Diệu, 1910-1991), thôn Đồng Tác, xã Bình Nam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
(24) Thánh đường ngoại giới: Thánh đường hữu hình, cất bằng vật liệu thế gian.
(25) An bài 安排: Sắp đặt đâu vào đấy cho ổn định (to arrange).
(26) Thánh đường nội tâm: Tâm hồn mỗi người thánh thiện, đạo đức tròn đầy thì đó là thánh đường nội tâm; trong đó có Cao Đài nội tại, Thượng Đế nội tại. Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô cũng nói về thánh đường nội tâm khi viết: Anh em há chẳng biết rằng chính anh em là Ðền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? / Don’t you know that you yourselves are God’s temple and that God’s Spirit dwells in your midst? (3:16)
(27) Thanh phong minh nguyệt hữu tình 清風明月有情: Gió mát trăng trong thú vị, cảnh đáng yêu.
(28) Khuôn Thiêng: Cái khuôn linh thiêng, ám chỉ Trời, Thượng Đế. Khuôn (quân 鈞) là cái bàn xoay của thợ nặn đồ gốm (potter’s wheel). Đại Quân 大鈞, Hồng Quân 洪鈞 (khuôn lớn) cũng đồng nghĩa Khuôn Thiêng; ý nói Trời tạo nên muôn vật cũng giống như thợ gốm dùng cái bàn xoay để nắn ra đủ thứ đồ dùng. Truyện Kiều có câu: Khuôn Thiêng dù phụ tấc thành, / Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.
(29) Dinh hoàn 瀛寰: Thế gian, địa cầu (the world, the globe, the earth).
(30) Không sắc tương quan: Cõi thiêng liêng siêu hình (không 空) và cõi thế gian hữu hình (sắc 色) có quan hệ qua lại (There are mutual relations between the invisible and visible worlds).
(31) Trần trung 塵中: Trong cõi trần.
(32) Cơ loan: Ngọn cơ. (Thường cần ngọn cơ có chạm hình đầu chim loan. Do đó cầu cơ cũng gọi là phò loan.)
(33) Nhân bản 人本: Gốc của con người. Thuật ngữ nhân bản trong Cao Đài bao hàm nhiều nghĩa thâm sâu. Chẳng hạn, con người (tiểu linh quang) vốn từ Thượng Đế (Đại Linh Quang) mà sinh ra, vậy gốc của con người là Trời. Trời (Thượng Đế hữu ngã, personal God) là Đạo (Thượng Đế vô ngã, impersonal God) ; vậy gốc con người là Đạo. Đời sống nhân bản (humanistic life) là sống hợp lẽ Trời, vừa lo phụng sự thế gian vừa lo xây dựng con đường trở về với gốc cội của mình là Đạo, là Trời.
(34) Sứ đồ 使徒: Tông đồ (học trò) của Trời thọ lãnh sứ mạng thay Trời hành đạo (apostles).
(35) Trung Châu 中州: Đất miền Trung, xưa gọi Trung Kỳ 中圻, nay gọi Trung Bộ 中部.
(36) Tao loạn 騷亂: Rối loạn, nhiễu nhương (disturbance).
(37) Kỳ thủ 棋手: Người đánh cờ (chess player).
(38) Ngũ Hành: Ngũ Hành Sơn (núi Non Nước) là tên gọi quần thể sáu ngọn núi đá vôi nhô lên trên một bãi cát ven biển, trên một diện tích khoảng hai cây số vuông, gồm: Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn (lớn, cao và đẹp nhất), Hỏa Sơn (có hai ngọn) và Thổ Sơn. Quần thể này cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng tám cây số về phía Đông Nam, ngay trên tuyến đường Đà Nẵng - Hội An; nay thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
(39) Tú khí 秀氣: Khí tốt lành.
(40) Ngũ Phụng Tề Phi 五鳳齊飛: Năm con chim phượng cùng bay, là thành ngữ để gọi năm Nho sĩ tỉnh Quảng Nam cùng đỗ đại khoa vào năm 1898. Gồm có:
Phạm Liệu (1873-1937), xã Trừng Giang, tổng Đa Hòa Thượng, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn (nay là xã Điện Trung, huyện Điện Bàn);
Phan Quang (1873-1939), xã Phước Sơn Thượng, tổng Xuân Phú Trung, huyện Quế Sơn, phủ Thăng Bình (nay là xã Quế Châu, huyện Quế Sơn);
Phạm Tuấn (1852-1917), xã Xuân Đài, tổng Phú Khương Thượng, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn (nay là xã Điện Quang, huyện Điện Bàn);
Ngô Chuân (1873-1899), quê xã Mông Lãnh, tổng Phú Xuân, huyện Quế Sơn, phủ Thăng Bình;
Dương Hiển Tiến (1866-1907), xã Cẩm Lậu, tổng Thanh Quýt, huyện Diên Phước, phủ Ðiện Bàn (nay là xã Điện Phong, huyện Điện Bàn).
(41) Bây chừ: Bây giờ.
(42) Vinh quy 榮歸: Từ đời Lê Thánh Tông, năm 1481 đặt ra lệ xướng danh và vinh quy cho các cử nhân tân khoa. Tân khoa nhận áo, mũ, và giày của vua ban; tên được nêu ở bảng gỗ chạm hình hổ (bảng hổ đề danh). Sau đó họ lần lượt lạy tạ ơn vua cùng các quan hàng tỉnh và quan trường. Khi tân khoa trở về quê quán; dân ở phủ, huyện, tổng, xã phải tổ chức đón rước, gọi là lễ vinh quy bái tổ 榮歸拜祖.
(43) Phục hưng 復興; trung hưng 中興: Hồi phục lại sau thời kỳ suy yếu (restoration after a temporary decline).
(44) Tu tề: Tức là tu thân 修身 tề gia 齊家.
(45) Quốc chính (chánh) 國政: Việc chính trị của quốc gia (national politic affairs); việc cai trị đất nước.
(46) Chưa tuyền: Chưa toàn vẹn.