Tháng bảy âm lịch đất trời đi vào tiết lập thu, bầu trời quê hương không c̣n trong xanh nhưng vướng đọng nhiều mây, thỉnh thoảng có những cơn mưa dầm kéo dài mấy ngày. Trong dân gian gọi là “mưa ngâu”. Tương truyền rằng Chức nữ là Thiên Tôn Nữ, cháu của Ngọc Hoàng, chuyên lo dệt vải, được gả cho Ngưu lang. Măi say đắm trong t́nh yêu nàng Chức nữ chểnh măng công việc nên bị phạt và bị đày về phía đông sông Ngân hà, mỗi năm chỉ được gặp Ngưu Lang vào ngày mồng bảy tháng bảy âm lịch. Tất cả quạ kết lại thành cầu để cho Ngưu lang và Chức nữ gặp nhau trên sông Ngân hà. Chiếc cầu đó gọi là cầu Ô thước. Cuộc gặp gở ngắn ngủi sau một năm dài xa cách là một chuyện t́nh buồn. Hai người chỉ c̣n khóc, ḍng lệ chảy xuống thành cơn mưa dầm sùi sụt, nhuốm nỗi buồn cho cơi nhân gian! Câu chuyện đó cũng cảm được ḷng thi nhân, nên có những vần thơ trữ t́nh dồi dào điển tích: “Đây là dải Ngân Hà Anh là chim Ô Thước Sẽ bắt cầu nguyện ước Một đêm một lần qua.” (Lưu Trọng Lư) Thực sự chuyện Ngưu lang Chức nữ chỉ tương truyền trong dân gian, mang tính buồn phù hợp với khung cảnh âm u của đất trời thàng bảy mùa thu; trọng tâm sinh hoạt dân gian trong tiết tháng bảy là mùa Vu Lan Ngày rằm tháng bảy là ngày vía lớn của Phật Giáo (rằm tháng giêng là lễ Thượng Nguơn, rằm tháng bảy là lễ Trung nguơn, rằm tháng mười là lễ Hạ nguơn). Ngày rằm tháng bảy tất cả chùa chiền đều tấp nập, các phật tử đến chùa để cầu siêu cho cha mẹ, cho những người thân sớm về cơi Phật. Rằm tháng bảy cũng là ngày xá tội vong nhân, người ta mở ḷng cầu cúng cho những oan hồn sớm siêu thoát, và cũng mở ḷng bố thí cho những kẻ khốn cùng cô quả! Nữ sĩ Anh Thơ (thời tiền chiến) bằng lời thơ đẹp và buồn đă vẽ nên ngày rằm tháng bảy: “Gió hiu hắt gieo vàng muôn cành lá Trời âm u mây xám bóng chiều sương Làng xóm ngập nhà nhà trong khói tỏa Vẳng đưa lời khóc mả lạnh hiu hiu.
Trong chùa điện hương đèn nghi ngút sáng Tiếng mơ chuông ḥa nhịp trống bên đ́nh Lời cầu cúng truyền theo làn khói thoảng Quyện cô hồn nương gió lại nghe kinh
Ngoài đê rộng bồ đề nghiêng đổ cháo Lễ chúng sinh từng bọn một ăn mày Cùng lẳng lặng như bóng ma buồn năo Dắt nhau t́m nơi cúng để xin may!’’ (Bức Tranh Quê) Người phật tử luôn luôn nhớ rằng mùa Vu Lan là dịp đền đáp ơn nghĩa sinh thành. Vu Lan mang ư nghĩa giải thoát nỗi thống khổ, bắt nguồn từ sự tích Tôn giả Mục Kiều Liên cứu độ mẹ là bà Thanh Đề. Mục Liên tên một vị Bồ tác đệ tử của Phật. Mục Liên hiền từ, dù đă thành chánh quả, thấy mẹ phạm vào tội phá hoại tăng ni, t́m cách cho họ phạm các giới cấm, nên bị đày vào ngục A tỳ, chịu cực h́nh đói khát và ngồi trên bàn chông sắt, hể bà ăn uống thứ ǵ đều biến thành lửa cháy. Mục Liên nhờ bồn bát và gậy phép của Phật Quan Âm xuống tận cơi âm ty cứu mẹ và khuyên mẹ ăn năn hối lỗi một ḷng tu niệm. Do đó mùa Vu Lan cũng là mùa báo hiếu của các phật tử thuần thành.
Vào khoản thập
niên sáu mươi, tôi có một người bạn gái là một phật tử rất mộ đạo, một ngày rằm
tháng bảy tôi và cô đi chùa lễ Phật. Chúng tôi đến chùa Xá Lợi, đó là một ngôi
chùa lớn nhất trong thủ đô
Khi ra khỏi cổng
chùa, hai chúng tôi đi bách bộ dọc theo đường Bà Huyện Thanh Quan, mùa thu
Bây giờ th́ mẹ tôi đă mất rồi, tôi đă thấy rơ sự mất mát lớn trong đời, tôi đă thấu cảm những giọt nước mắt của người bạn gái trong ngày rằm tháng bảy năm xưa. Tôi đă bôn ba trên đường hoạn lộ, lầm than trong chốn ngục tù, bận rộn trên đất tạm dung. Tất cả đă qua và sẽ qua đi, nhưng sự hối tiếc th́ c̣n măi trong tôi: “Tại sao không lần nào tôi ngồi lại với mẹ thật lâu, nh́n mẹ thật kỹ để biết mẹ đang sống và đang ngồi bên tôi. Tại sao từ lúc trưởng thành, tôi chưa bao giờ qú bên gối mẹ, cầm tay mẹ và thật ḷng nói với mẹ rằng con thương mẹ lắm mẹ ơi”. Mẹ c̣n sống là ḍng suối vô tận, là kho tàng vĩ đại, thế mà ta chẳng biết, vô t́nh hờ hững lăng phí vô cùng! Có một đêm tôi mơ thấy mẹ, tôi rất hạnh phúc được sống với mẹ trong thời thơ ấu, từ đó tôi cảm nhận gần đầy đủ một người mẹ tuyệt vời, sau đó tôi ghi lại bằng lời thơ: “Chiều chiều ra đứng ngả sau Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều” Mẹ là núi biển t́nh yêu V́ con xuôi ngược vạn chiều gió mưa Công lao đong mấy cho vừa Nuôi con khôn lớn mấy mùa gian nan Lời ru mẹ tựa cung đàn Vẳng theo tiếng vơng qua ngàn đêm thâu Nay dù ai lạc nơi đâu Vẳng nghe lời mẹ nhớ màu quê hương Mẹ là giọt nắng t́nh thương Sưởi hồn con ấm nẻo đường chiều đông Suốt đời mẹ chỉ hoài mong Bé thơ khôn lớn nối ḍng sử xanh Ngày xưa cha măi lâm hành Nửa đời chinh phụ mẹ đành cô đơn Mẹ là h́nh ảnh nước non Mẹ là gấm vóc cội nguồn thủy chung Chúng con xin hứa kiên trung Thương nhà nhớ nước cho ḷng mẹ yên. Viết xong bài thơ đó tôi đọc lại rất nhiều lần, nay gần như đă thuộc ḷng, tôi thường ngâm khe khẻ một ḿnh với sự hối tiếc tột cùng: * Phải chi mẹ c̣n sống tôi qú bên gối mẹ đọc cho mẹ nghe * Phải chi bài thơ nầy tôi viết lúc c̣n trẻ và tặng cho người bạn gái phật tử trong mùa Vu lan, chắc nàng ưng ư lắm. Nay th́ biết gửi về đâu? Thân xác mẹ tôi đang im ĺm trong mồ lạnh giữa đồng vắng quê hương. Cố nhân nay đă là một ni sư thuận thành, tóc đà ngă màu sương tuyết. Giờ nầy nơi quê nhà với vạn nỗi lầm than, chắc nàng đang cầu nguyện cho chúng sinh quanh cô vơi đi niềm cô quả! (Phạm Văn Tốt, Cử nhân Văn chương, nguyên giáo sư Văn Triết Sử của trường trung học Thánh Giusê, Cơ đốc, Đồng Tâm tại Saigon. Cũng là công chức VNCH (tốt nghiệp Học viện QGHC). Đă sống 10 năm trong lao tù Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt nam, đến Mỹ 1994. Có thơ đăng trên báo chí Saigon từ năm 1960, tại hải ngoại thơ của Phạm Văn Tốt, dưới bút hiệu Hàn Thiên Lương, xuất hiện trên nhiều báo Việt ngữ tại California, Virginia và Oregon. Nhà thơ hiện đang sống ở Portland, Oregon.) |