Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
(Chú thích về font chữ Hán Arial Unicode MS trong bài này) NHÂN QUẢ 因果 Dũ Lan LÊ ANH DŨNG 13-8 & 20-8-2006
LỜI MỞ Nhân 因 là nguyên nhân, nguyên do, cái duyên cớ (cause). Quả 果 là cái trái, kết quả, hậu quả, hệ quả (fruit, result, outcome, effect, consequence). Nhân ví như cái hột; quả là bông trái kết thành từ cái hột ấy. Sách Minh tâm bảo giám, chương Kế thiện, có câu: Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. (Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu. 種瓜得瓜,種豆得豆. Plant melons and get melons, sow beans and get beans.) Không ai gieo trồng hột chanh mà lại hái được cam, quưt. Nói gọn, gieo nhân nào th́ gặt quả nấy (Whatever a man sows, that also shall he reap). Nhân quả 因果 (karma; causality: the principle of [or relationship between] cause and effect) là một luật căn bản mà người muốn tầm Đạo nên hiểu biết rành rẽ rồi áp dụng vào đời sống hằng ngày mới mau tu tiến. Nhân quả là luật động và phản động (action and reaction), v́ mỗi cái động th́ luôn luôn có cái phản động trả lại; động và phản động không bao giờ rời nhau (Action and reaction are companions). Trong cuộc sống hàng ngày, luật nhân quả vẫn luôn diễn ra quanh ta, nhưng v́ quen thuộc quá, ít khi ta nhớ rằng đó là biểu hiện của nhân quả. Thí dụ: - Ăn rau th́ rửa chén mau sạch. Ăn thịt heo rửa chén cực hơn v́ bị nhầy mỡ. - Ăn quá no th́ mệt, nặng bụng. - Ăn quá mặn th́ khát nước. - Uống rượu quá độ th́ nhức đầu, say xỉn, nôn mửa… Phản động (quả) nặng hay nhẹ, mạnh hay yếu tùy thuộc vào tính chất của động (nhân). Thí dụ: - Dập trái banh vào tường càng mạnh, nó dội lại càng mạnh. - Trèo càng cao, té càng đau và nguy hiểm… Phản động (quả) mau hay chậm tùy thuộc vào tính chất của động (nhân). Thí dụ: - Cấy lúa tùy theo giống, sau ba hay sáu tháng th́ gặt được. Trồng xoài, sau vài năm mới có trái. Chính v́ cái quả có khi đến chậm, người đời lầm tưởng không có báo ứng. Để sửa sai ngộ nhận này, sách Minh tâm bảo giám, chương Kế thiện, có câu: Làm lành th́ có lành trả, làm dữ th́ có dữ trả; nếu như chưa trả là bởi chưa tới ngày giờ. (Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, nhược hoàn bất báo thời thần vị đáo. 善有善報, 惡有惡報, 若還不報, 時辰未到. Good deeds shall be returned with good rewards, and evil deeds shall be returned with evil rewards; if it is not the right time, no rewards will be given.) V́ luật nhân quả có lúc tác động rất chậm (quả cách xa nhân nhiều chục năm, thậm chí sau nhiều kiếp) nên ta khó hiểu được lư do những biến cố xảy ra cho ta, cứ ngỡ đó là ngẫu nhiên. Cụ Nguyễn Văn Minh là một trường hợp. Cụ Minh tu ở chi bộ Kiêm Ái, thuộc Hội Thông thiên học (Theosophy), Sài G̣n. Sau 1975, Cụ sang tu học ở Cơ quan Phổ thông Giáo lư Cao Đài giáo Việt Nam, giữ trọng trách Văn hóa Vụ trưởng của Cơ quan. Cụ là người tu chân chánh, một đời gương mẫu sáng ngời. Đức Mẹ ban thánh danh cho Cụ là Chơn Thiện Minh. Sau khi quy thiên (1980), Cụ đắc quả Thiện Minh Chơn Thánh (15-02 Nhâm Tuất, 1982).
Đức Thiện Minh Chơn Thánh Trước lúc tạ thế, Cụ phải nhập viện cấp cứu và chịu đựng một ca phẫu thuật bụng tại bệnh viện Sài G̣n (quận 1). Sau khi hồi tỉnh, Cụ nằm suy gẫm măi lư do khiến Cụ lại phải trả nghiệp thân đau đớn vào lúc tuổi già. Cuối cùng, Cụ chợt nhớ ra: Thuở c̣n trẻ, Cụ đang làm việc ở một Bộ tại Sài G̣n. Có người quen muốn xin giấy phép mở ḷ heo, nhưng thủ tục khó khăn, bèn nhờ Cụ “nói giúp giùm một tiếng” với viên chức có thẩm quyền xét duyệt hồ sơ. Lúc ấy Cụ Minh chỉ đơn giản nghĩ rằng người ta hành nghề sinh nhai lương thiện, nên Cụ bằng ḷng nói giúp. Thế là ḷ heo ấy ra đời, khiến cho hàng ngàn, hàng vạn con heo đă bị hóa kiếp. Cụ Minh không trực tiếp giết heo, nhưng mắc nợ một lời nói. Mấy chục năm trôi qua, Cụ b́nh an tu hành tinh tấn, nhưng trước giờ trở về chầu Thầy Mẹ, luật nhân quả công b́nh đă khiến Cụ phải trả dứt một món nợ b́nh sinh trước khi được Thầy ban đạo quả Chơn Thánh. Nhân quả không chỉ có ở hành động cụ thể, mà c̣n có ở mọi biến đổi vô h́nh (không thấy được bằng mắt: invisible). Thí dụ: tư tưởng, ư muốn tuy xảy ra trong tâm nhưng đều gây ra những rung động (vibrations) ảnh hưởng tới ngoại giới (môi trường bên ngoài: outer environment); những rung động này sẽ quay lại với chỗ xuất phát tức là con người đă nảy ra tư tưởng, ư muốn đó. Có lần Đức Quan Âm Như Lai dạy: Mắt phải ngó phải xem đúng lễ, Mắt tránh nh́n ô uế phàm thân… Hườn Cung Đàn, 29-5 rạng 01-6 Ất Tỵ (27-6-1965) Bây giờ đang thời @, ai cũng dễ dàng nh́n thấy trên internet vô vàn h́nh ảnh thô tục phô bày thân thể (sexy). Một bạn trẻ thắc mắc: “Nếu tôi xem các h́nh ảnh này th́ có chết ai đâu mà sợ!” Trái với suy nghĩ của bạn đó, có “chết” đấy chứ! Các h́nh ảnh khêu gợi sẽ kích thích sự ham muốn của tuổi trẻ đang tuổi phát dục. Thế rồi từ chỗ đầu óc bị ám ảnh, bạn trẻ sẽ đi tới hành vi cụ thể nhằm thỏa măn ṭ ṃ không xa. Như thế cái nhân xấu (xem h́nh ảnh ô uế phàm thân) sẽ đưa tới cái quả xấu là phạm giới, trái luân lư, có thể c̣n tác hại sức khỏe nữa (nhiễm bệnh). Cái quả này được Đức Quan Âm Như Lai dạy rơ: Dục tâm ắt phải loạn thần Xúi người lỡ bước sa chân lạc lầm. Hườn Cung Đàn, 29-5 rạng 01-6 Ất Tỵ (27-6-1965) Biết rằng luật nhân quả là quy luật khoa học, và lănh hội rằng chỉ cần tư tưởng nảy sinh cũng tạo ra quả báo, th́ người tu càng hiểu v́ sao trong Đạo nhựt thường hành (1938), bài Giới tư tưởng kinh, Đức Lư Giáo Tông dạy người tu phải sợ, chớ có tư tưởng xấu, bởi chúng không tan ră, mà tụ lại trên không trung (trung giái 中界) để chờ cơ hội dội ngược về tác hại người đă nghĩ xấu: Trên trung giái đủ h́nh tư tưởng, Dưới phàm gian hay vướng kế tà. Cũng v́ tư tưởng xấu xa, Gây nên tội lỗi khó qua lưới Trời. Điều này cho thấy luật Trời công b́nh và bất biến, không ai sửa đổi nó được. Hiểu theo tinh thần khoa học th́ luật Trời không có sự ban thưởng hay hành phạt, mà chỉ có những kết quả tốt hay hậu quả xấu quay ngược trở lại với con người và không ai tránh khỏi được. Luận ngữ chép lời Đức Khổng Tử dạy: Mắc tội với Trời th́ không thể cúng vái ai để giải tội được. (Hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo dă. 獲罪於天,無所禱也. He who offends against Heaven has none to whom he can pray.) Thật vậy, Hoạch tội ư Thiên là phạm luật nhân quả; vô sở đảo là tất yếu (inevitably), ai ai cũng phải chịu luật này chi phối. Người hiểu Đạo, biết luật nhân quả luôn ghi nhớ rằng: - Hiện tại ta sống vui vẻ và hạnh phúc – ấy là kết quả do ta tuân theo luật nhân quả của Trời; - Ngược lại, nếu ta chịu đau buồn và tai họa – ấy là hậu quả những ǵ ta trót tạo gây trái với luật Trời. Người hiểu Đạo cũng biết rằng luật nhân quả không phải là luật báo thù trả oán. Nó chỉ là luật công b́nh nhằm điều chỉnh những hành vi của con người cho đúng với luật Trời. Trong vũ trụ bát ngát bao la, vô biên vô tận, con người và vạn vật đều phải phục tùng luật nhân quả. Hiểu được luật nhân quả tức là cầm đạo quả của ḿnh trong tay, bởi việc tu tiến mau hay chậm chỉ tùy nơi bản thân mỗi người cố gắng tự chủ nhằm sửa đổi tư tưởng, ư muốn và việc làm sao cho luôn luôn tốt đẹp, không bao giờ chứa đựng một mảy may toan tính có lợi cho ḿnh mà gây hại cho người. Cầu xin bài giảng nhỏ này có thể giúp ích cho nhau được một phần nào trên con đường chúng ta cùng chia sẻ học tu và hành đạo. Trân trọng, Lễ Vu lan Bính Tuất, 09-8-2006 Dũ Lan LÊ ANH DŨNG
I. NHÂN QUẢ THEO KINH ĐIỂN MỘT SỐ TÔN GIÁO TRƯỚC TAM KỲ PHỔ ĐỘ Trước Tam Kỳ Phổ Độ, kinh sách nhiều tôn giáo Đông Tây đă dạy về (luật) nhân quả. 1. Đạo Nho Đức Khổng Tử dạy: Người làm lành, Trời lấy phước trả cho họ, người làm chẳng lành, Trời lấy họa trả cho họ... (Vi thiện giả Thiên báo chi dĩ phúc, vi bất thiện giả Thiên báo chi dĩ họa... 為善者天報之以福, 為不善者天報之以禍… Heaven shall reward blessings to doers of good deeds, and calamities to doers of evils…) Sang Tam Kỳ Phổ Độ, Đại thừa chơn giáo (Sài G̣n 1950, tr. 204) dạy không khác: “Trời Đất rất công minh, hễ làm lành th́ lành trả, gây họa th́ họa lai. (…) Hễ gieo giống ngọt th́ quả ngọt hưởng nhờ, gieo giống chua th́ quả chua nó đậu.” 2. Đạo Lăo Chương Cảm ứng của Đức Thái Thượng dạy rằng: Họa phúc không có cửa, chỉ v́ người ta mời nó tới; báo ứng lành dữ như bóng đi theo h́nh. (Thái Thượng Cảm ứng thiên viết: Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu; thiện ác chi báo, như ảnh tùy h́nh. 太上感應篇曰: 禍福無門, 惟人自召; 善惡之報, 如影隨形. Calamities and blessings never enter a door except when invited; good and evil rewards are like a shadow inseparable from its figure.) Sang Tam Kỳ Phổ Độ, ư này được Kinh Sám hối diễn lại như sau: Điều họa phước không hay t́m tới, Tại ḿnh vời nên mới theo ḿnh. Cũng như bóng nọ tùy h́nh, Dữ lành hai lẽ công b́nh thưởng răn. 3. Đạo Phật Mở đầu kinh Pháp cú (Dhammapada), phẩm Song yếu (Yammaka Vagga) là hai câu kinh song song như sau: (a) . . . Nếu nói hay làm với tâm ác, đau khổ v́ thế sẽ theo liền với ta như bánh xe lăn theo chân con ḅ kéo xe. (If one speaks or acts with wicked mind, thus suffering follows him just as the wheel follows the hoof of a draught-ox.) (b) … Nếu nói hay làm với tâm trong sạch, hạnh phúc v́ thế sẽ theo liền với ta như bóng không bao giờ rời h́nh. (If one speaks or acts with pure mind, thus happiness follows him just as his shadow never leaves him.) H́nh ảnh nhân quả nối theo nhau như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe được Đức Phật dạy ở câu (a), sang Tam Kỳ Phổ Độ, Đại thừa chơn giáo (Sài G̣n 1950, tr. 198) nhắc lại bằng thơ như sau: Gieo giống chi mọc liền giống nấy, Cảm vật nào vật ấy ứng cho, Coi như trong cái xe ḅ, Bánh xe lăn trả kịp gị bước chưn. Ḅ ngừng lại bánh ngừng đứng lại, Chậm hay mau là tại nơi ḅ, Bánh xe nó chạy theo gị, Chạy không cũng tại con ḅ gây ra. Ví dụ nhân quả nối theo nhau như bóng theo h́nh, h́nh ngay bóng thẳng, h́nh cong bóng cong như Đức Phật dạy ở câu (b), sang Tam Kỳ Phổ Độ, Đại thừa chơn giáo (Sài G̣n 1950, tr. 196) nhắc lại bằng thơ như sau: Trả vay vay trả liền liền, Nhơn nào quả nấy, nghiệp duyên buộc ḿnh. Bóng cong vạy tại h́nh cong vạy, Tội phước đi, qua lại không chừng… 4. Đạo Thiên Chúa Trong “Thư gửi tín hữu Galát”, Thánh tông đồ Phao-lô viết (chương 6, ba câu 7, 8 và 9):“… Thật vậy, ai gieo giống nào th́ sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, th́ sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt, là sự hư nát. C̣n ai theo Thần khí mà gieo điều tốt, th́ sẽ gặt được kết quả của Thần khí, là sự sống đời đời. Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, v́ đến mùa chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn ḷng.” (Bản dịch hiện hành của Nhóm Phiên dịch các giờ kinh Phụng vụ) … whatever a man sows, this he will also reap. For the one who sows to his own flesh will from the flesh reap corruption, but the one who sows to the Spirit will from the Spirit reap eternal life. Let us not lose heart in doing good, for in due time we will reap if we do not grow weary. (New American Standard Bible, Galatians 6: 7,8,9) 5. Đạo Do Thái Kinh thánh Cựu ước, sách Châm ngôn, chương 19, câu 17: “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng việc đă làm.” (Proverbs 19:17: He who is kind to the poor lends to the Lord, and he will reward him for what he has done.) 6. Đạo Hồi (Đạo Islam) Kinh Koran, chương 6, câu 132: Mọi người đều được ban thưởng tương xứng với việc họ làm; và Trời không làm ngơ trước những việc họ làm. (And all have degrees according to what they do; and your Lord is not heedless of what they do.) Kinh Koran, chương 13, câu 29: Đối với ai tin tưởng và làm lành, chung cuộc họ sẽ hưởng quả lành. (As for those who believe and do good, a good final state shall be theirs and a goodly return.) 7. Đạo Bà-la-môn (Ấn giáo, đạo Hindu) Theo kinh Phệ-đà (Veda), nếu một người gieo giống lành họ sẽ gặt hái điều lành; nếu gieo giống ác, họ sẽ gặt hái điều ác. (According to the Vedas, if an individual sows goodness, he or she will reap goodness; if one sows evil, he or she will reap evil.) (http://en.wikipedia.org/wiki/Karma_in_Hinduism) 8. Bái hỏa giáo (Ba Tư giáo, Zoroastrianism) Jasna, XXX, 11: Những người hung dữ chịu đau khổ lâu dài, những người công b́nh sẽ được ban hưởng trọng hậu và hưởng hạnh phúc. (http://www.thongthienhoc.com/ bài “Nhân quả” của Bạch Liên) Một vài dẫn chứng trên đủ cho thấy Đông Tây kim cổ trước Tam Kỳ Phổ Độ đều nói giống nhau về nhân quả. II. NHẬN THỨC VỀ LUẬT NHÂN QUẢ (Chỉ nêu bốn vấn đề cốt tủy có tính cách thiết thực cho cuộc đời tu hành.) 1. Luật nhân quả thể hiện luật công b́nh (equality) của vũ trụ. Luật nhân quả là luật tự nhiên (natural). Thượng Đế giữ luật nhân quả công b́nh, không v́ thương mà thưởng, không v́ ghét mà phạt. Cái quả (thưởng phạt báo ứng) là do cái nhân cũ con người đă gieo trồng. Đại thừa chơn giáo (Sài G̣n 1950, tr. 200) dạy: Nhơn nào quả nấy chẳng rời, Đ̣n cân công luật Phật Trời thưởng răn. Luật nhân quả là luật tự nhiên (natural) cũng có nghĩa nó nằm ngoài ư muốn của Trời. Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy: “Hiện t́nh thế sự ngày nay đă diễn biến biết bao nhiêu tấn tuồng nhân quả. Đó không phải do sự chấp định của Thầy, mà do luật định của Đạo.” Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 29-12 Bính Ngọ (08-02-1967) Do đó Đức Khổng Tử dạy: Hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo dă. Đức Quan Âm Bồ Tát dạy rất rơ ràng: “T́nh thương bao la của Đấng Chí Tôn và ḷng từ bi bao khắp của hàng chư Phật cũng không thể giải thoát giùm cho chư hiền những nhân quả chằng chịt ấy đâu. (…) Những ǵ con người hành động, những ǵ con người khổ đau, những ǵ con người than trách thuộc ngoài phạm vi đạo lư th́ chính con người chịu lấy, chớ Phật Trời nào bênh vực để trái luật công b́nh, mặc dầu vẫn thông cảm những trạng thái của con người.” Thánh thất B́nh Ḥa, 08-4 Canh Tuất (12-5-1970) 2. Luật nhân quả nhất định phải diễn ra, đó là tính tất yếu (inevitability). Nhưng thời gian diễn ra báo ứng có khác nhau. a. Nếu nhân và quả diễn ra ngay trong một kiếp sống th́ đó là báo ứng nhăn tiền, cũng gọi là đương kiếp nhân quả 當劫因果 (present-life cause and effect). Thí dụ: Kẻ trộm cướp khi bị bắt th́ phải chịu án giam cầm, tù tội. b. Nếu nhân ở kiếp trước mà quả diễn ra trong kiếp này th́ đó là báo ứng của kiếp trước, cũng gọi là tiền kiếp nhân quả 前劫因果 (effect from previous-life cause). Trong Đạo nhựt thường hành (1938), bài Giới buồn rầu nhân quả kinh, Đức Lư Giáo Tông dạy: Cũng v́ nhiều kiếp con gây, Ngày nay mới chịu nỗi này chớ sao. . . . Xét ra muôn sự trần ai, Đều do tiền kiếp trả vay rơ ràng. Cái quả buộc phải trả trong kiếp này chứ không chờ sang kiếp sau c̣n gọi là quả (chín) muồi (ripe or mature karma). c. Nếu nhân trong kiếp này mà quả sẽ diễn ra trong kiếp sau th́ đó là báo ứng chờ kiếp sau, cũng gọi là hậu kiếp nhân quả 後劫因果 (future-life effect). Đại thừa chơn giáo (Sài G̣n 1950, tr. 202) dạy: Họa phước ấy không sai báo ứng, Muộn kiếp nầy, gieo chứng hậu lai. Do có tiền kiếp nhân quả và hậu kiếp nhân quả mà ta hiểu thêm về luân hồi 輪迴 (samsara), v́ luân hồi gắn liền với nhân quả. Con người phải chịu tái sinh 再生 (rebirth) để nhận cái quả của kiếp trước. Người chưa học đạo không rơ hai lẽ tiền kiếp nhân quả và hậu kiếp nhân quả nên thường trách Trời bất công, than thở tại sao ḿnh ăn ở hiền lành mà cứ chịu tai ương; c̣n kẻ gian ác cớ sao vẫn sống khỏe phây phây. Kinh Sám hối giải thích: Người làm phước có khi mắc nạn, Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang, Ấy là nợ trước c̣n mang, Duyên kia chưa dứt c̣n đang thưởng đền. Hồi mới mở đạo Cao Đài, có vị tu hành mà khổ hoài, ḷng ấm ức quá đă động điển tới Thiên Đ́nh, do đó Ơn Trên an ủi: Ức ḷng dễ tỏ đặng cùng ai, Hiền đức mà sao chịu khổ hoài! Lăo nói tỏ tường cho đó hiểu, Cũng là vay trả luật xưa nay. Thánh ngôn hiệp tuyển (quyển 2, 1966, tr. 129) Người chưa học đạo không rơ hai lẽ b và c nên cũng không hiểu tại sao nhiều vị môn đồ của Đức Đại Tiên Ngô Minh Chiêu (Chiếu Minh vô vi) tu thiền rất nghiêm túc, sau một thời gian bỗng nhiên phải chịu tai ương, hoạn nạn rất lớn. Thật ra, các vị ấy nguyện tu một kiếp trở về Trời, quyết không chịu luân hồi; mà luật Trời th́ công minh, cho nên các vị ấy đành phải chịu nhồi quả, trả cho sạch nợ cũ lẫn mới (kiếp trước và kiếp này). Đại thừa chơn giáo (Sài G̣n 1950, tr. 198) dạy: Muốn mau thoát kiếp luân hồi, Kiếp nầy ráng chịu quả nhồi cho mau. Cái quả trả nhồi ấy cũng gọi là quả tích lũy (accumulated karma). 3. Luật nhân quả cho thấy mỗi người có thể là kẻ thù của chính ḿnh Thông thường ai cũng nghĩ kẻ thù của ḿnh là kẻ nào đó, kẻ khác (tha nhân). Nhưng các nhà đạo học cao thâm c̣n cảnh giới rằng mỗi người nếu không cẩn thận th́ tự ḿnh lại làm kẻ thù của chính ḿnh. Điều này hoàn toàn chính xác. Hàng ngày, hàng giây phút mỗi người có ba cách gây ra nhân quả cho chính ḿnh. Ba cách này Phật gọi là tam nghiệp 三業 (trividhà-dvàra; three causes of karma), gồm có: thân, khẩu, ư 身口意 (deeds, words, thought). - Thân: hành vi, việc làm. Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy: “Bất cứ một công việc dù to lớn hay nhỏ nhoi cũng đều là một tiến tŕnh nối đuôi nhân quả.” Trúc Lâm Thiền Điện, 07-4 Canh Tuất (11-5-1970) - Khẩu: Lời nói. Cổ nhân răn: Họa tùng khẩu xuất 禍從口出 (Tai họa do miệng sinh ra). - Ư: Tư tưởng, ham muốn và t́nh cảm. Trong Đạo nhựt thường hành (1938), Đức Lư Giáo Tông dạy về tác hại của ư như sau: Ư là ác nghiệt mọi điều, Trong đời vạn sự, ư nhiều tội hơn. Ư hay ganh ghét giận hờn, Răn ḷng sửa ư, lư chơn mới tường. Những điều sâu hiểm ghét thương, Đều do ư ác tạo đường nghiệt căn. (Giới ư kinh) Cũng v́ tư tưởng xấu xa, Gây nên tội lỗi khó qua lưới Trời. (Giới tư tưởng kinh) Dục t́nh, ái ố, mưu thầm, Sa mê danh lợi, tham dâm lụy trần. (Giới tâm kinh) Cái quả do thân, khẩu, ư mà chính ta gây tạo cho bản thân trong kiếp này được gọi là quả đương tạo (karma in formation). Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy về tam nghiệp: “Từ ngôn ngữ, hành động, tư tưởng cố tránh được oan nghiệt, sự thưởng phạt đă có luật nhân quả thừa trừ chí công vô tư, các con đừng dại dột gây thêm nhân, tạo thêm nghiệp nữa.” Cơ quan Phổ thông Giáo lư, 15-01 Đinh Tỵ (04-3-1977) Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn cũng dạy. Xét tư tưởng đừng c̣n sai quấy, Xét việc làm vô kỷ vô công. Xét lời ḥa duyệt dung thông, Trong ba phạm một, tam công hỏng rồi. Cơ quan PTGL, 14-8 Tân Dậu (11-9-1981) 4. Nhân quả riêng và chung Sống trên thế gian, do nhân ḿnh gieo mỗi người phải chịu quả riêng. Quả riêng của một người gọi là biệt nghiệp 別業 (individual karma). Cá nhân sống trong gia đ́nh, xă hội, quốc gia, thế giới c̣n phải chia sẻ hay gánh chịu một phần cái quả chung của các người khác tác động đến cá nhân. Cái quả chung của nhiều người gọi là cộng nghiệp 共業 (collective karma). Thời hạ ngươn mạt kiếp là lúc quả chung (cộng nghiệp) đang báo ứng. Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu dạy: “Các con có biết chăng luật nhân quả vẫn luôn luôn tiến hành trong thời kỳ hạ nguơn mạt kiếp, vạn linh sanh chúng đang đắm ch́m trong lửa dục, trong biển khổ, trong tham vọng đỉnh chung, để rồi tất cả đều chịu sàng sảy đào thải.” Thiên Lư Đàn, 29-12 rạng 01-01 Canh Tuất (05-02-1970) Người chân tu, biết hồi hướng điển lành có thể giảm bớt nghiệp quả riêng và chung. Đức Quan Âm Bồ Tát dạy: “Đành rằng cộng nghiệp nhưng tất cả đều làm lành lánh dữ, biết tránh sự sanh sát giết hại lẫn nhau, biết sợ luật điều vay trả, th́ cơ bảo tồn được luân động chở che, dù cộng nghiệp cũng không đến nỗi vào cơ sàng sảy.” Vĩnh Nguyên Tự, 03-01 Giáp Dần (25-01-1974) Hiểu luật cộng nghiệp, người tu Tam Kỳ Phổ Độ ư thức rằng không phải ḿnh tu riêng cho ḿnh, được chăng hay chớ; mà ḿnh c̣n tu cho thành thật để tác động vào cơ tiến hóa, phụ giúp công việc của Ơn Trên trong thời hạ ngươn. Đó cũng là ư nghĩa giản dị của sứ mạng đại thừa 大乘使命 (mahayanistic mission). III. HIỂU BIẾT NHÂN QUẢ ĐỂ SỐNG ĐẠO VỚI LUẬT NHÂN QUẢ 1. Không tạo ra nhân quả mới Một cái nhân tạo ra cái quả, quả này tạo ra nhân mới, rồi nhân mới lại tạo thêm quả mới, cứ thế nối nhau tiếp diễn măi, thành ra luân hồi. Một người tu say mê làm công quả phước thiện, do phước báu đó sẽ luân hồi trở lại, sống kiếp sau sang giàu và quyền thế. Đại thừa chơn giáo (Sài G̣n 1950, tr. 200) dạy: Biết lo bố đức thi ân, Luân hồi trở lại hưởng phần cao sang. Nhưng do sang giàu quyền thế, lại lạm dụng của cải và quyền lực để gây nên tội th́ kiếp sau nữa phải quay lại thế gian trả quả. Vậy, có thể nói rằng cảnh giàu sang quyền thế ngầm chứa một bản án treo cho kiếp sau mà con người v́ chưa tu nên không nhận thức. Bản án treo ấy được Đức Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn dạy rất rơ: Ngoài phương tiện lợi danh đầy đủ, Trong gia đ́nh hào phú kiêu sa, Với đời mở mặt người ta, Với ḿnh, xét lại đó là trái oan. Cơ Quan PTGL, 15-6 Quư Sửu (14-7-1973) Cho nên nếu do phước lành kiếp trước mà hưởng sang giàu kiếp này th́ người biết tu sẽ: - biết mượn của cải ấy để làm từ thiện (như tỷ phú Bill Gates), - biết ủng hộ các chánh pháp được hoằng dương (như ấn tống kinh sách, trợ giúp bậc chân tu xuất gia...). Tuy nhiên, mỗi khi làm được công quả th́ người tu phải lập tức cầu nguyện để hồi hướng phước lành về cho người khác, cho chúng sinh. Đó cũng là cách đoạn dứt nhân duyên hiện tại để tiêu trừ quả báo ở kiếp sau, và thoát khỏi luân hồi. Bài kệ hồi hướng sau khi tham thiền là một thí dụ: Công đức tọa thiền lớn biết bao, Phước lành hồi hướng đến nơi nao, Chúng sinh trầm nịch nguyền ra khỏi, Nhập được huyền môn ngộ đạo Cao… 2. Kham nhẫn để chịu trả quả Hiểu luật nhân quả công b́nh, người tu biết kham nhẫn 堪忍 chịu trả nợ cũ bằng cách chấp nhận nghịch cảnh. Những lúc quá sức chịu đựng, người tu cần cầu nguyện và siêng làm công quả để mau giảm nợ cũ. Như vậy không được than thở, v́ c̣n than thở th́ c̣n trốn nợ, và nợ cũ sẽ tăng gấp đôi. Thánh ngôn hiệp tuyển dạy: Nhiều nhân quả trước phải đền nay, Chẳng gỡ cho xong cứ nhắc hoài. Một tiếng than van thân cực nhọc, Một oan chẳng chịu muốn gây hai. (Quyển 2, Sài G̣n 1966, tr. 135) Đức Vô Cực Từ Tôn Diêu Tŕ Kim Mẫu cũng dạy. Biết rằng nghiệp quả do nhân, Sao c̣n phiền năo giận mừng đau thương. Cơ quan PTGL, 14-8 Bính Th́n (07-9-1976) Trong Đạo nhựt thường hành (1938), Đức Lư Giáo Tông đă thương xót môn sinh Cao Đài phải chịu trả quả, nên ban cho bài kinh để ta cầu nguyện khi cơi ḷng quá đỗi đớn đau v́ nhân quả trả vay: Giới buồn rầu nhân quả kinhỞ đời nhiều lối buồn rầu, Hiệp tan, hoạn nạn v́ đâu dạt ĺnh.[1] Tử sanh, dời đổi, đao binh, Làm cho trí hóa cảm t́nh nhớ thương. Trong ṿng luân chuyển âm dương, Trái oan trước tạo, rẽ đường sao đây? Cũng v́ nhiều kiếp con gây, Ngày nay mới chịu nỗi này chớ sao. Nguyện cùng Bắc Đẩu, Nam Tào, Vui ḷng lănh chịu một màu trả xong. Từ đây ḷng dặn lấy ḷng, Tạo nhơn tác phước, lánh ṿng nghiệt căn. Cũng v́ một lỗi hai lầm, Công Tào luật pháp cân cầm chẳng sai. Xét ra muôn sự trần ai, Đều do tiền kiếp trả vay rơ ràng. Biết rồi con chẳng buồn than, Dầu khi tai họa khốn nàn cũng cam. Dốc ḷng làm chủ tánh phàm, Nợ xưa xin trả, phước đam thi hành. [đam: đem] Cầu Thầy độ tận quần sanh, Cho con trả quả tập tành tánh linh. 3. Tạo duyên lành để can thiệp vào luật nhân quả Ngoài nhân quả c̣n có duyên. Duyên 緣 (pratyaya; conditions) là những yếu tố ở không gian và thời gian giúp nhân trở thành quả hoặc ngược lại duyên ngăn cản, hoặc đ́nh trệ luật nhân quả, làm giảm sức mạnh của quả. Gieo giống trên tảng đá th́ không kết quả. Đó là nghịch duyên (unfavourable condition). Gieo giống trên đất màu mỡ và siêng chăm sóc th́ có kết quả tốt. Đó là thuận duyên (favourable condition). Đứa trẻ hỗn láo (nhân), cha nó nọc nó ra và sắp đánh (quả gần tới) th́ chợt có khách ghé chơi (duyên). Cha nó hoăn h́nh phạt, đợi khách về sẽ trị tội (duyên làm chậm quả). Tuy luật nhân quả không thiên vị ai, nhưng duy nhất trong Tam Kỳ Phổ Độ, do luật đại ân xá người tu có thể được giảm nhẹ quả báo của kiếp trước theo tỷ lệ bớt bảy c̣n ba. Thầy dạy: Con biết tu Thầy thu lại bớt, Tội đủ mười Thầy sớt c̣n ba… Như thế đại ân xá là cái duyên can thiệp (interfering condition) vào luật nhân quả. Ta không thể thay đổi nhân xấu trót tạo ở quá khứ, nhưng ta có thể thay đổi cái quả ở hiện tại bằng cách tạo ra duyên lành để cải thiện quả xấu, quả dữ. Tạo duyên lành bằng cách TU. Trong Thánh ngôn hiệp tuyển, Thầy dạy rằng tu là con đường thong dong cho người trần thoát ra ṿng nhân quả: Giựt giành rốt cuộc cũng tay không, Nhân quả đeo mang tội chất chồng. Ví biết phép công cơ thưởng phạt, Đường tu sớm bước chí thong dong. (Quyển 2, Sài G̣n 1966, tr. 127) 4. Ta tu c̣n có trách nhiệm phải dẫn dắt gia đ́nh, con cháu ḿnh cũng tu. Đại thừa chơn giáo (Sài G̣n 1950, tr. 202), Thầy dạy: Ḱa biển hẹn non thề phải dứt, Dây buộc ḿnh cắt đứt chớ vương. Nhưng ta trót lập gia đ́nh, do nhân ấy mà có quả là vợ (chồng) và con cháu. Nếu chỉ một ḿnh ta biết tu, những người khác trong gia đ́nh không tu, ít nhất sẽ có hai tác hại: (a) hiện kiếp họ khảo ta, cản trở ta tu hành; (b) hậu kiếp họ chịu quả báo, ta dẫu có về cơi thượng e rằng cũng khó ḷng thanh thản. Đức Đại Tiên Văn Duyệt dạy: “Người cha đạo đức sẽ gieo lên hạt giống đạo đức. Truyền thống đạo đức là một điều kiện bảo đảm tương lai vững chắc. Cũng có lắm gia đ́nh cha hành đạo, con lại sa đọa, theo thói hư tật xấu ngoài đời. Đó không phải tựa vào thuyết nhân quả để bào chữa cho hiện tại, mà do sự bất lực của người cha thiếu giáo huấn, từ gia đ́nh đến xă hội quốc gia cũng không ngoài cái lư ăn trái bỏ hột mà thôi.” Ngọc Minh Đài, 10-5 Canh Tuất (13-6-1970) Muốn độ cho vợ (chồng), con cháu ḿnh tu, khó khăn hơn độ người ngoài. V́ hàng ngày họ kề cận bên ta, thói hư tật xấu của ta họ biết hết, ta không làm gương được th́ làm sao bảo họ tu. Cho nên độ gia đ́nh ḿnh tu tức là bản thân ta phải tự làm gương, chung quy phải độ ḿnh tu hành chân thật trước hết. IV. SỐNG ĐẠO VƯỢT RA NGOÀI NHÂN QUẢ Hiểu nhân quả để áp dụng mà sống đạo với luật nhân quả như nói trên (mục III) thật ra là khó, rất khó! Nhưng đấy vẫn chưa phải là tột bực của con đường tối thượng thừa như Ơn Trên hằng giáo huấn môn sinh Cao Đài. Con đường tối thượng thừa ấy kết hợp ba trong một: - dùng công quả bồi âm chất để giải trừ mọi ngăn trở của nghiệp quả (karmic obstacles), - dùng công tŕnh luyện kỷ để rèn tánh, - dùng công phu thiền định để rèn tâm, Khi ấy, người tu đạt tới tâm thanh tịnh và đoạn dứt mọi đường nhân quả tại thế gian. Đức Vô Cực Từ Tôn Diêu Tŕ Kim Mẫu dạy: Con ôi, học đạo hằng thường, Là tâm thanh tịnh dứt đường quả nhân. Cơ quan PTGL, 14-8 Bính Th́n (07-9-1976) Dứt bằng cách nào? Ở bậc hành thiện, tu đức, ai cũng sợ nhân quả, hiểu rằng làm ác là tạo nhân quả xấu, đó là xiềng xích bằng sắt trói buộc ḿnh. Không những sợ xiềng xích bằng sắt, người tu c̣n phải biết sợ thêm xích xiềng bằng vàng. Thật vậy, hành thiện, tu đức sẽ tạo nhân quả lành và nhân quả lành vẫn dẫn dắt về luân hồi để hưởng phước báu ấy (như nói ở mục III, điểm 1 trên đây). Muốn thoát luôn sợi xích vàng này th́ dù đang tu tam công (công quả, công tŕnh, công phu) nhưng người tu thượng thừa cần tập buông xả luôn kết quả của ba công mà ḿnh vừa tạo lập để không c̣n duyên buộc ràng nhân quả. Muốn thực hành và thực chứng lẽ cao siêu huyền diệu này, người tu cần kiên tŕ nghiền ngẫm lời dạy của Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn: Con hiểu được chọn chân bỏ giả, Diệt thức t́nh ḷng dạ sạch trong. Vị lai nếu có nơi ḷng, Ước mơ thành quả cũng ṿng nghiệp thôi. Nghiệp lành dữ rốt rồi là nghiệp, Sắt hay vàng đều xích xiềng thân. Sao bằng tâm chí lâng lâng, Nhổ mầm t́nh thức, đoạn nhân tục phàm. Cơ quan PTGL, 14-8 Tân Dậu (11-9-1981) Tóm lại, người tu hành vẫn c̣n nằm trong phạm vi giới hạn của việc gieo nhân lành để kết quả lành. Đó là bước khởi đầu cần thiết của mọi người tu. Nhưng môn đệ Đức Cao Đài c̣n được dạy hăy biết phấn đấu bước lên cao hơn và xa hơn nữa là buông xả luôn nhân lành quả lành để vượt ra ngoài ṿng trói buộc của cơi tạm trần gian. Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh dạy: Gieo nhân kết quả hẳn rồi, Vượt ngoài nhân quả, bầu trời thênh thang. Rằng đời cơi tạm thế gian, Th́ chi ta phải cưu mang nặng ḷng. Lưới Trời chẳng lọt mảy lông. Cơ quan PTGL, 15-4 Đinh Tỵ (01-6-1977)
LỜI KẾT Luật nhân quả có thể bàn ra trăm, ngàn trang chữ viết, v́ kinh sách kim cổ Đông Tây và thánh ngôn thánh giáo Cao Đài dạy không sao kể xiết. Nhưng biết nhiều, luận giỏi mà không thực hành cũng chẳng ích chi. Bài giảng hôm nay chắc chắn là thiếu sót, chỉ mong sao tạm nhấn mạnh được một đôi điều thiết thực, tâm huyết để bản thân người giảng bài cũng như toàn thể quư vị hiện diện trong giảng đường này cùng giật ḿnh sợ hăi, thấy rằng chúng ta đă và đang sai lầm trong ṿng nhân quả do biết mà vẫn tạo hay do không biết mà trót tạo. May duyên có đạo Cao Đài d́u bước ta trở lại, ta hăy một ḷng noi theo ánh sáng Kỳ Ba để thoát ṿng nhân quả, như lời dạy của hai vị tiền bối Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt: Đường tăm tối muốn đi nhờ ánh đuốc, Cơn băo bùng chớ vượt biển cậy thuyền con. Dẫu có tài toan lấp biển dời non, Không đạo đức khó thoát ṿng nhân quả. Hỡi ai đó chớ vay nhiều rồi phải trả, Trả rồi vay, vay trả măi luân hồi. Có chi bằng thức tỉnh học đạo Trời, Cho thân thoát khổ, cho đời thoát tai. Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 14 rạng 15-02 Đinh Mùi (24-3-1967) HẾT |
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|