SANH KƯ TỬ QUI
(Châu Minh, 15-5 năm Đại Đạo 36 Tân Sửu,
27-6-1961)
Bài:
Câu rằng: Sanh kư
tử qui,
Sống tṛn đạo đức, thác th́ nhàn
thân.
Sống đeo đai, xác phàm
nặng nhọc,
Thác thân rồi, hồn được
thảnh thơi;
Dạo chơi góc bể
chân trời,
Lúc nương mây gió, lúc nơi thiên
bồng.
Người tu chẳng cầu mong
sống măi,
Sống làm sao trọn phải,
trọn lành;
Thác rồi hồn được
nhàn thanh,
Vui cùng tuế nguyệt, em anh một
nhà.
Người ở thế, ai mà chẳng
chết.
Chết làm sao đừng vết lỗi
lầm;
Ở đời ai sống trăm
năm,
Làm nên bể Sở, non Tần lưu lai.
Tiếc bấy kẻ phàm tai, mắt
tục,
Tiếc sống trong, thác đục
đau thương;
Sanh ly, tử biệt
là thường,
Như đèn trước gió, như sương đầu
gành.
Lúc ra đi, ngoảnh nh́n
Ṭa Thánh,
Khi trở về, cám cảnh tiêu
điều;
Người người vẻ mặt
hắt hiu,
Thương người thiên cổ tiêu diêu
non bồng.
Hăy phấn chí hết ḷng v́
đạo,
V́ chết là hết báo nghiệp
căn;
Hết điều thế tục
nợ nần,
Rảnh rang non nước, lê chân ngắm
nh́n.
Thương những kẻ hy sinh
hành đạo,
Thương những người khổ
năo nghiệp căn;
Ngă đây đă được
phục hoàn,
Ḷng thương nén lại, để toan cứu
ḿnh,
Miễn sống sao trọn lành
trọn tốt,
Th́ ngày sau sẽ được vị
ngôi;
Lo chi ngày tối
đua bơi,
Những điều lợi lộc, chiều mơi
khổ ḷng.
Thương những kẻ trong
ṿng lao lư,
Quên con đường chánh kỷ
hóa nhân,
Ngă đây ngôi vị
sẵn sàng,
C̣n chi luyến tiếc xác phàm trọc
ô.
Hăy quyết tiến bến bờ sẽ
thấy,
Bao con đường trái, phải,
chánh, tà;
Mạch sầu nhơn loại
lụy sa,
Là tay hướng đạo, lo xa giúp
vùa.
Thuở sanh tiền, chiều
trưa hành đạo,
Sớm tu hành, đàm thảo chữ
tu;
Em anh đồng một
thuyền từ,
Cùng là tỷ muội, chữ tu cố cần.
Nay tôi chỉ linh quan
điển huệ,
Để xuống phàm, hầu để đôi
lời;
Cùng chung Hội
Thánh yên nơi,
Ngă xin kỳ khác, Ngă lui kiếu
từ.
THIÊN TƯỚNG BẠCH SẮC |