CHUÔNG KHẢI NGỘ
(Ngũ Long Môn, 6-5 năm Đại Đạo 36 Tân
Sửu, 18-6-1961)
Thi bài:
Thầy chẳng nỡ khoanh tay
ngồi ngó,
Để cho con kẻ Sở người
Tần;
Tây, đông chia rẽ
bắc, nam,
Đầu đàng kẻ nọ, cuối đàng kẻ
kia.
Thầy thấy con đầm đ́a
giọt lệ,
Hết lời khuyên cặn kẽ từ
lời;
Khuyên con chẳng
lúc nghỉ ngơi,
Cơ ṃn bút tận c̣n khơi đuốc
lành.
Các con rán lưu thanh khử
trược,
Để d́u nhau anh trước em
sau;
Tỷ muội liên kết
cùng nhau.
Rẽ chia Thầy lắm ḷng đau đớn
ḷng.
Thầy khó chở nổi ḷng trẻ
dại,
Thầy chở non, lấp hải, xô
sơn;
Ḷng con ô trược
cừu hờn,
Thuyền Thầy phải đắm bao cơn
sóng đùa.
Chuông lệ đổ chiều trưa
kêu trẻ,
Dội trống sầu thỏ thẻ từ
câu;
Đừng phân cao
thấp, thấp cao,
Sang hèn một thể một màu Lạc
Long.
Dây thân ái tây, đông kết
lại,
Một đường ngay lẽ phải
hành tṛn;
Điều ngay đỏ tợ
như son,
Lẽ hung bạo ác c̣n hơn than
hồng.
Con diệt trừ cơi ḷng
tham dục,
Hầu cùng nhau ung đúc
tinh thần;
Để ra giải cứu
nhơn quần,
Trong cơn nước lửa lan tràn
đông, tây.
Sai một bước thang mây
khó đến,
Mệnh con đành lểnh đểnh
giữa ḍng;
Bao la khổ hải
mênh mông,
Rồi con sực tỉnh cơi ḷng làm
sao?
Hăy cùng nhau chịu sào đỡ
lái,
Thuyền vững vàng ắt phải
đến nơi;
Đừng v́ nghịch lẫn
đôi lời,
Xa nhau muôn dặm, khóc, cười,
buồn, vui.
Thầy thấy con bùi ngùi tê
tái,
Trẻ bao đành ngoảnh lại
làm ngơ;
Khổ đau con thấy
sờ sờ,
Sao con chẳng hiểu tới giờ nguy
cơn?
Hầu chống thuyền keo sơn
vớt chúng,
Vớt linh hồn chập chũm
ngoài khơi;
Đem lên bát nhă đ̣
trời,
Con đường giác ngộ con thời tỉnh
say.
Ba sáu (36) niên Cao Đài
tá thế,
Khuyên các con xiết kể
kinh luân;
Thiên kinh vạn
quyển thiên đ́nh,
Giao con rán học sửa ḿnh đoan
trang.
Đọc chữ được không nhờ
kiếng sáng.
Đọc chữ nhờ cố gắng thực
hành;
Cũng như kẽ dữ trở
lành,
Nhờ nơi tu học chí thành sớm
hôm.
Con vào đạo chánh chơn
không hiểu,
Như kiếng kia nặng trịu
mang vào;
Tưởng đâu đọc chữ
rành mau,
Nhưng làm sao đọc nêu câu đạo
lành.
Biết chữ đạo chí thành
tiến tới,
C̣n không th́ lui lại cấp
thời;
Con ôi! đường đạo
đua bơi,
Vị ngôi Thầy để chiều nơi trông
chờ.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ |