Trở lại trang chánh của Website Thiên Lý Bửu Tòa

 

Ðàn đêm Mồng 7 tháng 6, năm Ất Hợi (1935).

thuyết chơn ngôn giáo dục đời,

TRÍCH bài Thánh-Ðức rải năm nơi,

TIÊN tri thế sự kim thời đáo,

Giáng điển Ngọc-Vân độ rổi người.

       Chào chư hiền đệ, chư muội nữ nghe dạy:

Thi bài:

              Cho hay vực thẳm nên cồn,

Gò cao hóa bể, Chí-Tôn lập đời.

       Ðêm thanh tịnh cung Trời hạ giáng,

       Nương mây vàng thỉnh thoảng đến đàn,

              Nương cơ chỉ vẽ hành tàng,

Ðể lời châu ngọc thế-gian roi truyền.

       Thấy cảnh khổ trần duyên lao lụy,

       Nhìn sanh linh phải bị tai nàn,

              Ðộng ngôi Ngọc-Ðế thở than,

Tam-Kỳ độ tận dân an nước bình.

       Chín năm dư hết tình khuyến dạy,

       Ðộng-Ðình-Hồ thấu đáy nước khô;

              Bút Tiên mòn khuyết rồi tô,

Bớ người lương thiện mau vô ÐẠO-HUỲNH!

       Ở cõi tạm phù sinh mấy lát,

       Về cảnh Tiên khoảng khoát muôn thu,

              Trần gian là cái lao tù,

Trả vay, vay trả đền bù oan khiên.

       Nay Lão giáng di truyền bí quyết,

       Ngoái đôi tai mà biết lời này,

              Tỉnh người khờ khạo ngu ngây,

Mắt đui nhờ sáng phen này chẳng không.

       Ðò Bát-Nhã thả dòng biển Bắc,

       Ðuốc quang minh dẫn dắt người Nam;

              Ðạo khai chọn Thánh phân phàm,

Cứu cơn nước lửa hội bàn Long-Hoa.

       Cõi giả tạm thoạt qua thoạt lại,

       Chốn trần-hồng lắm cải biến thiên,

              Hữu phần gặp đặng cảnh Tiên,

Vô duyên phải chịu xuống miền Âm-Ty.

       Giải chử Khổ tầm suy lánh khổ,

       Kiếp phù sanh lụy đổ tràn sông,

              Kho宮. ôi! Ai có biết không?

Mà sao chẳng lánh cái vòng khổ kia?

       Mến danh lợi thức khuya dậy sớm,

       Mê cân đai cho bợn vấy mình,

              Sao người thấy Khổ không kinh?

Cứ đeo theo nó chôn mình biển sâu?!

       Thất hy-vọng đêm rầu ngày rĩ,

       Ngồi khoanh tay suy nghĩ lo lường,

              Tính toan trăm nẽo ngàn đường,

Lao tâm nhọc trí đành vương khổ sầu.

       Muốn danh vọng lo âu năm, tháng,

       Bỏ uống ăn tán loạn tinh thần,

              Người đời ham chữ vinh thân,

Rốt rồi thất bại muôn phần đớn đau!

       Nằm rủn chí bào-xàu tâm địa,

       Nước mắt ra hồn vía khật-khờ,

              Rối lòng trăm mối chỉ tơ,

Rầy con, đánh vợ, sững-sờ như điên!

       Vậy sao không lánh miền trần khổ?

       Vướng làm chi lụy đổ châu sa?

              Chi bằng thong thả quê nhà,

Ngâm thi vịnh phú chữ Hòa ai hơn.

       Nghèo lại muốn giàu hơn phú-hộ,

       Ham làm chi chịu khổ như vầy?

              Nếu không đắc nguyện sự này,

Than van Trời Phật, giận lây Thánh Hiền.

       Trò đời quá ước điên, ước dại,

       Ước không nhằm lẽ phải rồi phiền,

              Quả xưa, vì chịu đảo điên,

Nợ trước còn lại cần chuyên trả rồi.

       Muốn làm khổ, ham thời cũng khổ,

       Muốn mình nên đến chổ hân-hoan,

              Mà không biết luật trần-hoàn,

Dốt hay nói chữ luận bàn ở đâu?

       Người sanh ra hồi đầu còn bé,

       Dày công lao cha mẹ nấng-nuôi,

              Rồi than số phận chi xuôi,

Oan gia vương vấn, khóc mùi trách than!

       Phải biết rằng trần-hoàn tình dục,

       Xả thân tu un đúc chơn-hồn, 

              Ngày sau nhập cảnh Thiên-Môn,

Mặc tình thanh-nhã càn-khôn độ đời.

       Người chẳng nghĩ đến nơi đến chốn,

       Quấn-quít thành lẫn lộn sông mê,

              Sanh ra đã khổ muôn bề,

Lớn khôn cũng khổ nảo-nề gian nan!

       Lo mình đặng giàu sang quyền tước,

       Ước mình hơn, mình được ngôi cao,

              Lăng-xăng rộn-rực trần lao,

Tính từ nhỏ lớn biết bao kho?ầu!

       Người quân-tử lo câu trung hiếu,

       Kẻ tiểu-nhơn ham níu khổ trần,

              Tính sao cho hết xa gần,

Diệt đặng sự khổ thì thân an nhàn.

       Giành giựt nhau đôi đàng tranh đấu,

       Yếu thì không chịu xấu chịu nhơ,

              Ðem lòng thầm tính oán vơ,

Ngày đêm mưu kế thói khờ giết nhau!

       Ai cũng muốn mình sau lấy tiếng,

       Nổ lực nhau đấu chiến xông pha,

              Giết nhau như cắt cổ gà,

Lòng hăng quá dữ thật là vô lương!

       Tình đồng loại không thương chẳng tiếc,

       Mảng gây ra các việc oán đời,

              Tưởng rằng không có Ðất Trời,

Hồn lìa khỏi xác quỉ mời Âm-Ty.

       Người còn sống chịu thì tù rạc,

       Luật quang minh thưởng phạt nặng nề,

              Hành hình đày đọa khó về,

Biết bao là khổ nặng-nề lao-lung!

       Thấy mà đau, khôn cùng cho thế,

       Sống mưu mưu kế kế gạt lường,

              Còn hơi đua lấn, giả phường,

Người đời sống thác lẹ dường mây bay.

       Cứ luân chuyển đọa đày nợ thế,

       Ðiểm linh-quang đành để lu tàn,

              Mấy ai sớm biết lo toan,

Hồi tâm hướng thiện tìm đàng chánh chơn?

       Nước mắt chứa còn hơn biển Bắc,

       Xác thân người dày đặt rừng Nam,

              Khổ kia đã biết còn ham,

Nước sôi đã phỏng cứ lầm tay vô.

       Chốn phàm tục khắc khô đau dạ,

       Người hồng trần gây họa chác hờn,

              Lao-đao cái khổ ràng chơn,

Dây sầu cột trói lắm cơn lụy tràn.

       Còn đại-khổ thế-gian lắm có,

       Gây chiến tranh chẳng rõ thương dân!

              Kể ra biết mấy mà cân,

Sanh-linh đồ thán chịu phần ách-tai.

       Rồi một trận trần-ai chết bộn,

       Thây chật đường cảnh khốn ai bi,

              Quạ tha diều rút thiếu gì,

Xương tan cốt rã nghĩ thì càng ghê!

       Máu đầy biển ê hề như tuyết,

       Thấy khổ đời không biết là bao,

              Ai không thức tỉnh đó nào?

Ai đành cắn rứt đồng-bào hỡi ai?

       Ðấng quân-tử nghiêng vai gánh hết,

       Chớ lơ-là sống chết ích chi?

              Sống sao rạng tiếng nam nhi,

Sống nên danh giá, sống vì đạo tâm.

       Sống mà ăn, sống không giá-trị,

       Sống hại đời, sống tỷ thú cầm,

              Sống sao chẳng có lương tâm,

Sống không ích lợi sống làm quấy thêm!

       Sống mà đặng nêu tên bảng hổ,

       Sống không vì cái khổ cột ràng,

              Sống bày chuyện ích nhơn gian,

Sống như khúc gỗ còn làm lợi thay.

       Người như thế mà ai kính mến,

       Người độc tâm chẳng đếm danh thơm,

              Sống vì giá áo túi cơm,

Sống nhơ danh tiết, sống khôn mới mầu.

       Người nhập thế, để hầu giúp thế,

       Trả quả xưa phổ tế kỉnh Trời,

              Sống lo học hỏi tấn thời,

Sống như ong kiến, sống ôi vô dùng!

       Kìa trâu ngựa tận trung vì chủ,

       Ngày đêm lo phận đủ đáp đền,

              Giúp đời ích chúng chí bền,

Người linh hơn vật sao quên cho đành.

       Cái ách nước tan tành xiêu đổ,

       Trận ba-đào biển khổ lấp chôn,

              Tiêu tan biết mấy linh-hồn,

Luồng giông có thể lấp chôn hiểm nghèo.

       Nguyên nhơn khổ là điều tư-tưởng,

       Người tu hành chớ lượn thất-tình,

              Diệt tiêu lục-tặc, tam-bành,

Vọt qua kiếp khổ lương-tâm vui nhàn.

       Ước không đặng cũng than rằng khổ,

       Thương không vừa cũng đổ lụy châu,

              Ham muốn sự quấy thảm sầu,

Muôn năm tôi mọi dãy dầu khổ kia.

       Nó sai khiến tía-lia này nọ,

       Muốn nhiều điều rất khó cũng chìu,

              Làm người sao chẳng trừ tiêu?

Sống làm nô-lệ, chết xiêu vô-thường!

       Bịnh cũng khổ, tang thương đại khổ,

       Các cuộc đời là khổ quá ư!

              Khổ kia sớm biết lo trừ,

Mới mong tự toại tâm tư thanh nhàn.

Thi:

Nhàn lạc thoát ra nghiệt khổ sầu,

Thất-tình lục-dục đọa càng sâu,

Muội tâm mê trí vương luồng khổ,

Khổ ấy gây ra phải chịu sầu!

       Người ở thế sanh ra trả khổ. Nào là sự ham muốn chẳng đặng toại kỳ sở vọng, cái khổ nó làm cho chúng sanh phải gây ra dây oan trái. Tội tình đớn đau cũng là khổ, mà không có sự ham muốn thì đâu có khổ? Con người phải chịu nô lệ cái sự khổ. Cái sự khổ nó dẫn dắt con người bước xuống hang sâu hố thẳm, mà cũng có cái khổ tâm kia nó dắt con người bước lên chín phẩm sen vàng. Cái khổ của người tu hành chẳng phải sự ham muốn, mà cũng chẳng phải sự đớn đau, cái khổ là để hết tâm trừ cho hết cái kho宠Khổ kẻ đời vì mến yêu là khổ, giàu có là khổ, bịnh hoạn là khổ, nghèo mà ước ao giàu sang là khổ. Con người mà chẳng phấn tâm tận chí vượt ra cho khỏi cái nô lệ của kiếp khổ, thì rất uổng cho một kiếp con người. Nhưng trái lại, cái khổ nó đem người bước lên đường tấn hóa, đó là bài học đầu lòng của đời vậy.

Thi:

Sóng Sắc xôn xao nhận chụp thuyền,

Anh-hùng quân-tử phải khờ điên,

Sắc chôn kẻ trí nơi u ám,

Sắc vốn là yêu sớm diệt liền!

 

Tài lợi lắm người phải khổ kia,

Giết nhau ruột thịt cũng chia lìa,

Tiền tài phấn thổ sanh điều quấy,

Bằng hữu đệ huynh chịu đoạn lìa.

 

Tửu nhục sanh tâm quấy quá vầy,

Nhà hư nước mất cũng vì đây,

Như điên như dại người đều ghét,

Tửu loạn tâm thần khiến dại ngây.

 

Khí lừng chẳng kể đến nên hư,

Lỗ-mảng sân si quấy quá trừ,

Tổn đức một lời muôn kiếp đọa,

Giận không suy nghĩ nước nhà ư ?

 

Cái kiếp lao đao đã trải rồi,

Thương người ở thế khổ nàn ôi!

Phải chi sớm biết tìm chơn-đạo,

Ðâu có trả vay chuyển mấy hồi.

 

Hồi xưa nhớ đến bắt nhờm thay,

Thay đổi vật nhơn chịu đọa đày,

Ðày lụy phù sanh như đốm lửa,

Người đời sống thác có bao ngày!

 

Ngày giờ đã đến hội Long-Hoa,

Trổi tiếng chuông linh tỉnh trẻ già,

Về chốn Tây-Thiên an tánh lạ,

Nợ trần đoạn dứt bước theo Ta.

 

Ta truyền Thánh-chỉ khá nghe theo,

Chớ mến đỉnh chung chịu kiếp nghèo,

Thảm bấy trò đời chưa thức lý,

Chỉ mê vật chất chịu lầm eo.

 

Eo ngặt tang thương đã biến gần,

Khuyên người trở gót lánh mê-tân,

Lóng nghe giọng sáo đờn Tiên trổi,

Thâm thúy vào tai bước lẹ cần.

 

Cần chuyên đạo-đức đến thang mây,

Vận tiểu-châu-thiên đợi lịnh Thầy,

Mở cửa linh-sơn chờ khách quí,

Một bầu xá-lợi chảo lò xây.

 

Xây chuyển nhơn-tâm với đạo-tâm,

Người ngu kẻ trí phải lo tầm!

Xa mùi tục lụy muôn năm thú,

Ðừng vướng dây oan phải đạo trầm.

 

Trầm luân chuyển kiếp thú ra người,

Người thú lẫn nhau đó các ngươi!

Phải biết chồn lươn, chim hóa vọp,

Thì nên xa lánh, chớ vui cười.

 

Cười xòa khách tục muốn tầm Tiên,

Cũng muốn say sưa cũng muốn quyền,

Thịt cá ê-hề thê thiếp đủ,

Muốn giàu, muốn tước, muốn Thần Tiên.

 

Tiên Phật có không cũng tại tâm,

Muốn cho biết ngọc phải công tầm,

Muốn nên quan lớn thì lo học,

Học đặng nên danh mới đặng cầm.

 

Chơn điển gần mòn để tiếng khuyên,

Cung Tiên Lão giã các chư hiền,

Ở trần phải giúp nên an tịnh,

Dẫu chích mích nhau đợi lịnh truyền.

       Quan-Âm giáng đàn. Ta lui.

----> NEXT

 

Thiên-Lý Bửu-Tòa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh