ÐỆ
HUYNH
Ðã chung sanh giữ-gìn một giống,
Anh phải thương dắt dẫn đoàn
em,
Thuận hòa khuyên chớ tị hiềm,
Nương
nhau mà trả ơn trên sanh thành.
Khi tuổi trẻ chẳng đành cách
mặt,
Buổi lớn khôn khải đặt nghệ
công.
Nên chia chỗ ở, nghiệp, phòng,
Vắng
nhau nghĩ đến chạnh lòng nhớ thương.
Ðừng bày chuyện chia đường
huynh đệ,
Thương chúng sanh lầm kế nữ-nhi,
Khiến nên huynh-đệ không vì,
Quên
ơn cha mẹ nào tri nghĩa tình.
Phân nhơn nghĩa đệ-huynh phai lợt,
Rồi một mình yếu ớt với
đời,
Sanh lòng đố kỵ nhiều lời,
Kìa
gương bẻ đũa trò thời xét suy.
Quyền huynh thế phụ, tùy phận
sự,
Phải biết mà cư-xử cùng
nhau,
Anh hòa em thuận một màu,
Anh
khôn chỉ dạy em vào đường ngay.
Rủi cha mẹ chẳng may sớm khuất,
Thì anh em hiệp sức lo lường,
Nhớ cha mẹ buổi trần dương,
Thấy
em mà chạnh nghĩ thương đến già.
Khi ương-yếu chung hòa chớ nệ,
Tùy sự đời lập thế dìu
em,
Chí công dạy dỗ khuyên thêm,
Làm
em âu phải trọn niềm thương anh;
Ơn cha mẹ sanh thành quá nặng,
Mà ơn anh cũng chẳng nhỏ gì,
Khi mình còn bé đứng đi,
Dắt
dìu anh phải giữ nguy té mà!
Vậy em phải xét xa nhơn ngãi,
Dẫu anh em rủi phải bất hòa,
Nghĩa tình đừng để cho xa,
Nhịn
nhau đặng vẹn mới là phận em.
Biết trọng nghĩa phải xem phụ
mẫu,
Vì thương con khẩn đảo dưỡng
nuôi,
Con còn thơ ấu ngậm-ngùi,
Ngày
đêm toan liệu tới lui lo lường.
Khi ấm lạnh quá thương thang
thuốc,
Buổi ốm đau bó buộc muôn phần,
Thương con mẹ chẳng nệ thân,
Lo
cho con mạnh cha gần hụt hơi.
Mà đâu kể mấy nơi dơ thúi,
Chẳng màng thân cặm cụi nuôi
con,
Ðến khi đặng thấy vuông tròn,
Là
năm bảy tuổi cũng còn chăm nom.
Lo đứa lớn bửa cơm thang
thuốc,
Nuôi đứa thơ nào cuộc mặn
nồng,
Thương ôi! tay dắt tay bồng.
Ngày
đêm chẳng ngớt vợ chồng thường than.
Thấy đứa nhỏ mạnh càng mừng
nữa,
Lo búng cơm vú sữa ngày ngày,
Rồi lo cho đứa lớn rày,
Học
hành tập tiếng làm tai nghe lời.
Nghe con nói ra lời bập bẹ,
Thì mừng như đặng chén rượu
ngon,
Lần lần dạy chỉ cho con,
Biết
ăn biết nói lại càng vui thay!
Khi tuổi lớn giồi mài trí hóa,
Cho học hành mới thỏa lòng
thương,
Nỗi đem con đến giáo trường,
Thương
con không biết bước đường ra sao?
Sợ thầy đánh, nỗi nào bạn
học,
Thấy nhỏ theo ghẹo chọc hiếp
hành,
Nhưng mong con lập nên danh,
Phải
cam bóp bụng dạ đành để đi.
Học hành mỗi trong khi đi đứng,
Cũng như còn lững chững khi
thơ,
Áo cơm khuya sớm kịp giờ,
Quyết
cho con đặng giựt cờ công danh.
Lo cho trẻ học hành khó nhọc,
Mà biết con chí dốc cùng chăng?
Nên hư cũng cứ gọi rằng:
"Lớn
lên lo phận xích thằng định duyên".
Lòng cha mẹ phỉ nguyền một thuở,
Rày đã già nương đỡ cùng
con,
Quyết lo lập nghiệp vuông tròn,
Ðể
cho trẻ đặng nước non phỉ lòng.
Rủi già yếu còn mong chi đặng,
Lo khi mình mạng vắn xa trần,
E con nhỏ lớn chẳng cần,
Sanh
lòng ngổ nghịch chia phần phá hư.
Mới than vãn khắc khư từ tiếng,
Khuyên con nên nhớ chuyện cha
truyền,
Sau dầu cha đến Cửu-tuyền,
Mấy
con ở lại tính chuyên nghiệp nghề.
Ðừng chia rẻ phu-thê huynh-đệ,
Rán gắng công lập thế nuôi
nhau...
Thương ôi đến tắt hơi nào,
Mà
còn kêu trẻ dặn trao sự đời.
Nay đã biết thế thời bước
khổ,
Công mẹ cha biết độ ngằn nào?
Làm con phải biết dồi dào,
Làm
em phải biết trên cao huynh tình.
Nhớ ơn nặng dưỡng sinh dạy
dỗ,
Nỡ lòng nào ái mộ bất hòa,
Phiền anh nghĩ nhớ mẹ cha,
Lời
xưa trăn-trối xét ra nỡ nào?
Hiếu chí kỉnh ơn cao phụ mẫu,
Ðể chí hòa rọi dấu đệ
huynh,
Trò ôi! Xét lấy giữ gìn,
Làm
em chớ khá phân tình chị anh.
Nào đến sự xuân xanh phu phụ,
Cha mẹ đà ký chú căn duyên,
Dẫu chi cũng vẹn chữ nguyền,
Ðừng
lòng tham phú phụ hèn chẳng nên.
Ơn cha mẹ chưa đền đáp đặng,
Mà gây oan gia nặng chi nào!
Vợ chồng dầu phải khó vào,
Chia
vui sớt nhọc để trao gánh nồng.
Chớ đặng cá quên công lưới
bủa,
Ðừng đặng chim ná lựa bẻ
đi,
Vợ chồng đương buổi khuynh
nguy,
Trăng
cao gió chẳng lay gì ánh trăng.
Chớ gọi phải hung hăng chẳng
nể,
Mà linh hồn cha mẹ thảm sầu,
Ðã đành kiếp sống gió câu,
Nhưng
thân thê tử dãi-dầu chi phai.
Trò nghĩ kỹ giồi mài tâm chí,
Sửa cho nên nghĩa khí vẹn toàn,
Sửa nhà đạo đức nghiêm
trang,
Rồi
ra sửa thế mới an đó là.
Muốn gieo chữ cọng hòa thế
giới,
Thì trò tua giữ cái tâm điền,
Ðệ huynh Thầy đã dạy truyền,
Tiếp
lời bằng hữu Ðào-Viên kết tình.