Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
(Trích TSCĐGL Tây Đức số 34)
Trong bài này,
chúng
tôi không đưa ra ư kiến mới mà chỉ tổng
hợp các tài liệu từng đề cập đến
danh xưng "Cao Đài" theo một bố cục tương
đối rơ ràng mạch lạc, để chư độc
giả tham khảo.
"Cao Đài ứng hóa trong ḷng
chúng sanh, 2.- Đức Chí Tôn đă cấm bàn đến hai tiếng Cao Đài trong một đàn cơ như sau: " Thầy các con. Các con tịnh tâm nghe Thầy hỏi: ........... C̣n hai chữ Cao Đài nghĩa là ǵ ! K..... bạch....... Cười......Cười......Cao Đài.... cười, M.L.T Thầy cấm các con bàn về hai chữ Cao Đài nghe. Chờ đến Long Hoa Đại Hội sẽ rơ......
(Hai tài liệu trên rút trong quyển lịch sử Ngô
Minh Chiêu)
I. Xa xưa chúng ta thấy
có:
" Cao như Bắc
Khuyết nhân chiêm ngưỡng
Hai câu đối
này cho biết Đạo Cao Đài sẽ xuất hiện
tại Nam Phương mà Đức Cao Đài là Giáo Chủ, Đức
Cao Đài tức là Đức Huyền Khung Cao Thượng Đế
Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, ngự tại phương
Bắc hay là Bắc Khuyết.
"Con cầu Phật Tổ
Như Lai
Khi các Giáo sĩ
Đạo Cao Đài ra truyền Đạo tại Tam Quan (Trung
Việt) th́ mấy vị này sau khi nghe danh hiệu đức
Cao Đài đều đến xin làm đệ tử ngay.
Lời tiên
tri này nói rơ năm và báo trước rằng : "
Trời sẽ khiến ḷng người theo Đạo mới
và Đạo Cao Đài sẽ đạt chân truyền."
Trong hai bài thơ
có nhắc đến danh từ Cao Đài.Thời buổi
ấy các ông không rơ danh từ ấy có nghĩa ! Song các
ông biết rằng đại cương hai bài thơ
ấy có nói về quốc vận một cách sâu xa. Hai câu
thi 5 và 6 có ư kỷ niệm ngày 3 tháng 1 năm 1913 vào câu
và câu nào cũng ngụ ư số 3. Sau đàn cơ ấy
ông Lê quang Hiển để hai bài thơ này lên trang
thờ để làm kỷ niệm.
(Tài liệu tiên tri rút trong quyển Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ (Cao Đài Giáo sơ giải) của
Đạo Trưởng Huệ Lương) Vào một buổi đàn cơ do đồng tử âm dương (Nguyễn văn Vân và ông Bộ Thọ) Pháp đàn là ông Trần phong Sắc, ông Kim là điển kư và Đức Ngô làm độc giả. Khi đọc đến câu:
"Ngũ chơn bửu khí lâm triều
thế.
Có một
vị Tiên Ông giáng xưng là Cao Đài Tiên Ông, cơ gơ
mạnh và bảo ông Trần phong Sắc sửa lại hai
câu ấy. Ông Sắc vốn là một nhà Nho sành sỏi,
nhưng không biết Cao Đài Tiên Ông là ai, nên trả
lời một cách suồng să rằng: "Bài thỉnh Tiên
này ra 100 năm về trước rồi, từ bên Trung
quốc qua đây không ai dám cho là sái, nay Ngài bảo
sửa, nói vậy là thiệt trật hay sao?" "Bửu Chơn ngũ khí lâm triều thế" Tiên Ông khen. Cả nhóm người đều chưa hiểu Đức Cao Đài là ai. Riêng Đức Ngô tin rằng đó là ông Trời mới dám sửa kinh sách từ xưa như vậy.
2. Đối với nhóm đệ tử
thứ hai (về Phổ Độ). Một Tiên Ông xưng là A Ă Â biểu các ông phải kêu bằng Thầy và Ngài gọi các ông là "con" .
Cho đến
đêm Noel 1925 Tiên Ông mới xưng " Ngọc Hoàng Thượng
Đế viết Cao Đài Giáo Đạo Nam Phương "
.....
(hai tài liệu này trích từ quyển
lịch sử Đức Ngô Minh Chiêu) Chúng ta sẽ t́m hiểu sự tá danh của Đức Thượng Đế, danh hiệu đầy đủ và hai tiếng Cao Đài nh́n theo kinh dịch.
1. Sự tá danh : Vào năm 1927, trong một đàn cơ ở Cần Thơ, Đức Thượng Đế cho cho một bài thi như sau:
Có nghĩa: Nơi điện Linh Tiêu trên Thiên Đ́nh có một ngôi tháp tên gọi là Cao Đài, quần Tiên thường nhóm họp ở trước bệ ngọc ấy, hào quang muôn trượng do đó mà phát ra. Tên xưa của cảnh quí báu ấy là " Lạc Thiên Thai". Như vậy Cao Đài chính là tên một ngôi tháp trên Thiên Đ́nh mà Ngài đă mượn vậy. Cùng một ư nghĩa trên ta t́m được nơi trang đầu sách Thánh bằng chữ Hán do Hội truyền Giáo của người Anh xuất bản năm 1913 ở Thượng Hải có câu: "Hỡi Đấng Jéhovah, Ngài là cái lâu đài cao thượng mà nơi đó chúng con có thể ẩn trú ". Nếu khởi đầu chúng ta thấy Đức Ngôi Hai đă từng đặt câu hỏi :
"Cao Đài ứng hóa theo ḷng chúng sanh, th́ đặc biệt thay Ngài đă giải thích hai tiếng Cao Đài trong dịp giảng nghĩa danh từ "Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lư Cao Đài Giáo Việt Nam" như sau: "Cao Đài là một tá danh của Thượng Đế khi đến mở Đạo tại Việt Nam. Đài cũng là cái Đài, cái Đài tối cao trọng đại, chứa đựng từ bi, cảm ứng, trung thứ, Tam qui, Ngũ giới, Tam Nguơn, Ngũ hành, Tam Cang, Ngũ Thường. Đài là nơi, là vị trí tập trung tất cả xu hướng Đạo giáo hay tôn giáo phát tiết ra từ nơi đây "
Đài là nơi Tam giáo hiệp nhất, là ṭa nhà đại đồng qui tụ tất cả các tôn giáo mà xưa kia đă từ nơi đây tung ra các nơi. Đức Ngô có dạy bằng văn vần:
" Cao Đài chỗ Thiên
nhơn hiệp nhứt " từ cái nh́n Cao Đài
thật xa đă đem về thật gần gũi chúng
ta, nơi mỗi người chúng ta Cao Đài tức là Nê
Huờn Cung mà câu " Đầu Thượng viết Cao Đài
" đă giảng giải, đó là nơi Thiên Nhơn
Hiệp Nhứt, nơi mà Tinh Khí Thần hiệp một
ở ngày đắc Đạo như Chí Tôn đă dạy :
" Thần là khiếm khuyết của cơ mầu
nhiệm, từ ngày Đạo bị bế. Lập Tam Kỳ
Phổ Độ nay duy Thầy cho Thần hiệp Tinh Khí
đặng hiệp đủ " Tam Bửu " là cơ
mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh " . Danh hiệu đầy đủ của tá danh là: " Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát "
Nam Mô: chữ
phạn trong kinh Phật có nghĩa : Chắp tay, cúi đầu,
cung kính thỉnh nguyện.
Đạo
Nho gồm: Nhơn Đạo, bổn phận
đối với gia đ́nh. Thần Đạo: bổn
phận đối với quốc gia. Thánh Đạo:
bổn phận đối với xă hội. Ba giai đoạn
trên thuộc phần nhập thế và nửa xuất
thế. Tiên Đạo và Phật Đạo
: Phần xuất thế tu tánh luyện mạng để
thoát ṿng luân hồi sanh tử. Theo danh hiệu của Đức
Chí Tôn, người tu hành phải đi từ giai đoạn,
tuần tự liên tiếp nhau, từ thấp lên cao,
từ Nhơn Đạo đến Thiên Đạo hầu hoàn
tất con đường tu học để trở
về hiệp nhứt với khối Đại Linh Quang. Tỷ như lập Tam giáo qui nhất th́: Nho là trước Lăo là giữa Thích là chót. Nên Thầy phải ngồi sau chư Phật, Tiên, Thánh, Thần mà đưa chúng nó lại Vô Vi chi khí, chính là Niết Bàn đó vậy ". (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)
Số chữ
trong câu tá danh của Đức Chí Tôn gồm có 12. Đó là
số đặc biệt của Đức Chí Tôn mà Ngài
đă giảng như sau : "Các con coi bậc Chí Tôn như Thầy mà hạ ḿnh độ rỗi nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để ḿnh vào phẩm tối cao, tối trọng, c̣n Thầy th́ khiêm nhường là thế nào!
Hạnh khiêm nhường
là hạnh của mỗi đứa con, phải
noi theo gương Thầy mới độ rỗi thiên
hạ đặng. Các con phải khiêm nhường sao cho
bằng Thầy" . (TNHT,tr.41) Đàn cơ tại đảo Phú Quốc, giờ tư đêm rằm tháng 8 Ất Sửu (1925) Đức Quan Thánh Đế Quân dạy: .... " Kỳ này lập Đạo, tá danh là Cao Đài là cái triệu chứng để lại muôn đời roi truyền trong Việt Nam, mà cũng là ngày năm châu loạn lạc, đao binh nổi dậy khắp nơi ! Chúng sanh khá nhớ : "Cao vi CÀN, Càn vi Thiên, Đài vi KHẢM, Khảm vi Thủy tức là quẻ "Thiên Thủy Tụng" th́ chạy đâu cho khỏi số Trời định đoạt binh lửa bốn phương. Những kẻ thiếu tu đành cam số phận .Cười, cười!" (Quyển Cải Tử Huờn Sanh của ông Lê trung Nghĩa) Theo kinh dịch trước quẻ Tụng là quẻ Nhu, Nhu nghĩa là ăn uống, v́ ăn uống tất sinh ra tranh nhau. Tụng nghĩa là tranh nhau. Quẻ Tụng trên là Càn, là Trời, dưới là Khảm là Thủy, Càn biểu dương cường dũng, nóng nảy táo bạo, Khảm biểu dương hiểm độc, mưu mô. Một bên hiểm, một bên kiện tất nhiên không chịu nhau, hoặc bề trong âm hiểm mà bề ngoài dương kiện cũng chẳng khỏi tranh nhau. Đă tranh nhau tất phải kiện, hoặc kiện bằng giấy bút, hoặc kiện bằng miệng lưỡi, hoặc kiện bằng đao binh, tổng chi là Tụng, nên đặt quẻ bằng Tụng. Ở vào thời tụng, phe nào cũng tranh phần phải, thị phi hắc bạch rất hỗn hào, duy có người trung chính xử đoán bằng cách trung chính mới hay. Trung th́ chẳng thiên lệch về phía nào. Chính th́ chẳng dan díu với tư t́nh, thính đoán được công b́nh thời trong thiên hạ ai nấy cũng thỏa hiệp. (Kinh Dịch Cụ Phan Bội Châu) Sứ mạng Cao Đài Giáo trong thời Tụng chính là sứ mạng nhơn ḥa: "Hộ con tạo thế nhơn ḥa Trời Nam xây dựng Bửu Ṭa vạn linh". Phụ thêm câu đối: 1.- Trước các Thánh Thất thuộc Ṭa Thánh Tây Ninh: "Cao Thượng Chí Tôn Ḥa B́nh Dân Chủ Mục. Đài Tiền Sùng Bái Tam Kỳ Cộng Hưởng Tự Do Quyền"
2.- Trước Thánh Thất B́nh Ḥa Gia Định
"Cao Thượng Hoằng Khai Đại Đạo qui nhứt bổn Đài Tiền phổ hóa Tam Kỳ Hiệp Ngũ Chi".
Bài đến đây, chưa thể gọi là chấm dứt. Chỉ tóm tắt lại: - Phóng ra th́ Cao Đài muôn vàn ư nghĩa "Cao Đài ứng hóa theo ḷng chúng sanh". - Thu gọn lại "Cao Đài là Cao Đài"
Vấn đề của chúng ta là phải biết : biết phần phức tạp cũng như phần đơn giản.
|
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|