XUẤT
GIA LÀ XUẤT CÁI G̀
Sáng tác: Hòa
Thượng Tuyên Hóa
Đức Phật tuy là một vị
Thái Tử nước Ấn Độ
nhưng đối với phú quí thế
gian Ngài lại sinh lòng nhàm chán rất
sâu đậm, nên Ngài muốn bỏ ngôi vua
để xuất gia tu Đạo. Ngài cũng
muốn là cho tất cả chúng sinh biết
rằng tất cả mọi pháp của thế
gian đều là vọng tưởng.
Thế giới nầy
do đâu mà thành ? Là do vọng tưởng
của chúng sinh tạo thành và trong tương
lai thì cũng sẽ do vọng tưởng
của chúng sinh mà tiêu hoại, cho nên có
câu: Như thị nhân, như thị
quả . (Hễ có nhân thì có
quả).
Ở trên thế gian, mọi thứ đều
là vô thường biến loạn. Bồ
Tát nhàm chán pháp thế gian, Phật
lại càng xa lánh pháp thế gian hơn nữa.
Ngài không sinh lòng nhiễm ô chấp trước
pháp đó. Ngài vĩnh viễn đoạn
tuyệt lòng tham ái, dục vọng thế
gian. Điều mà người đời
tham thì Phật không tham, điều mà người
đời ưa thích thì Phật không
ưa thích, bởi vì Ngài không có
tham ái cho nên Ngài không có phiền
não.
Phiền
não mà chúng ta có bây giờ là
do đâu mà sinh ra ?. Là do tham với
ái sinh ra ! Nếu mình không tham thì không
có lòng ích kỷ, nếu không có
lòng ích kỷ thì mình không có phiền
não.
Tại
sao phải tham ?. Tại vì mình bị
dục niệm chi phối, khiến cho mình
phát sinh ra lòng tham ái mà không thể
nào thỏa mãn được thì
sẽ sinh ra phiền não; có phiền não
thì có điên đảo; có điên đảo
thì có ô nhiễm. Bây giờ mình tu
hạnh thanh tịnh tức là phải làm
sao để diệt trừ tất cả
mọi thứ ô nhiễm.
Phật lúc
nào cũng tìm cách làm lợi
ích cho chúng sinh. Lúc ở trong Vương
cung thì Phật không tham trước mọi
thứ vinh hoa phú quí; lúc xuất gia
thì Ngài dẹp bỏ hết những oai
nghi của người thế tục, không
cùng người khác đấu tranh biện
luận, cho nên Ngài đắc được
Vô Tranh Tam Muội :
Tranh thị thắng
phụ tâm,
Dữ Đạo tương vi bội,
Tiện sinh tứ tướng tâm,
Như hà đắc “Tam
Muội ?“.
Dịch là :
Tranh là tâm hơn
thua,
Đi ngược lại với Đạo,
Khiến sinh ra bốn tướng;
Làm sao được “Tam
Muội“.
Phật an trụ nơi pháp Không Tranh. Ngài
hoàn thành hạnh nguyện đã lập
khi xưa, đầy đủ vô lượng công
đức. Ngài dùng quang minh của Đại
Trí huệ để diệt trừ tất
cả si mê trên thế gian, phá tan tất cả
những sự đen tối vô minh. Ngài
là phước điền vô thượng
của chúng sinh ở thế gian, lúc
nào cũng vì chúng sinh mà tán
thán công đức của mười phương
ba đời chư Phật, khiến chúng
sinh được trồng phước, cầu
huệ và vun bồi tất cả thiện căn
nơi Tam Bảo. Phật dùng con mắt
trí huệ thấy được tất
cả đạo lý chân thật, rồi lại
vì chúng sinh mà tán thán công
đức xuất gia.
“Xuất gia“ là xuất
“Tam giới gia“ (Dục giới, Sắc
giới và Vô sắc giới) và
cũng là xuất Thế tục gia.“Thế
tục gia“ là nhà của người
đời, ra khỏi nhà người rồi
tức là mình không còn quan niệm như
người đời nữa.
“Xuất
gia“ cũng có nghĩa là xuất Phiền
não gia. Chúng ta, mỗi người
trên thế gian nầy, đều đang ở
trong cái nhà phiền não. Khi nóng giận
thì mình cảm thấy rằng ăn bất
cứ món ngon vật lạ nào cũng
đều không có mùi vị gì cả,
cho nên khi mình xuất gia là muốn xuất
ra khỏi nhà phiền não.
“Xuất
gia“ còn có nghĩa là xuất Vô minh gia.
“Vô minh“ tức là không có hiểu biết
rõ ràng, chuyện gì cũng không thấu
suốt, làm chuyện gì cũng điên
đảo cả. Do đó phải ra khỏi
cái nhà vô minh.
Xuất gia cũng
có nhiều động cơ khác nhau. Như
ở Trung Hoa, có nhiều người
vì lớn tuổi rồi mà không có
thân thích để nhờ cậy, cho nên
họ xuất gia để về sau có người
săn sóc cho dễ dàng. Có kẻ vì
hoàn cảnh bức bách nên xuất gia; hoặc
vì phạm pháp, giết người nên
muốn đổi danh đổi tánh, đổi
mặt đổi mày, làm người
xuất gia để luật vua không tầm nữa.
Có kẻ thì vì khó nuôi nên gia đình
quyết định đem cho nhà chùa. Đó
là ba loại người xuất gia, có
tu hành được hay không thì chưa
biết; có thể họ tu được,
mà có thể họ chẳng tu
được!
Lại có kẻ
chân chánh vì vấn đề sinh tử,
phát tâm Bồ đề mà xuất gia.
Hạng xuất gia như vậy nếu họ không
bao giờ thối tâm thì đúng là
chân chánh tu hành. Họ vì đau khổ
nghĩ đến vấn đề sinh tử
mà phát tâm đại Bồ đề, y chiếu
theo lời Phật dạy mà tu hành.
Cho nên xuất gia có nhiều tâm trạng và
hoàn cảnh khác nhau. Song, sau khi xuất gia rồi
thì đừng có phạm lỗi lầm
mà phải trở nên thanh tịnh, xa lìa
mọi tội lỗi, khôi phục lại tâm thanh
tịnh bản hữu của chính mình,
vĩnh viễn ra khỏi nhà Tam giới, ra
khỏi nhà phiền não, ra khỏi nhà vô
minh, ra khỏi nhà thế tục.
..................................................................
Còn vấn đề
vì sao làm người nam, vì sao làm
người nữ, thì đó là do
ưa thích mà ra. Hễ ai có ý niệm
thích làm con gái thì sẽ làm con
gái, nếu có tư tưởng thích
làm đàn ông thì sau nầy sẽ
làm đàn ông. Đó là nghiệp
báo mà tự mình tạo ra, tự
mình chịu quả, tùy theo nghiệp mà
chuyển hóa. Song cũng có người
có khả năng chi phối nghiệp quả
của chính họ. Họ không bị cảnh giới
xoay chuyển, mà trái lại, họ có thể
chuyển hóa Càn Khôn, làm cho nghiệp
quả cải biến và làm chủ
được chính họ.
Nếu mình
tùy theo nghiệp thì mình không có năng
lực khống chế nó. Nếu mình
biết chuyển nghiệp, tức là
mình có năng lực khống chế
nó. Tại sao Bồ Tát
lại phát nguyện ? Là để
khống chế giòng lưu chuyển của
nghiệp. Các Ngài dùng đại nguyện
để mà trụ cột, do đó mới
xoay chuyển được nghiệp. Cho nên
nói rằng các Ngài có thể chuyển
nghiệp mà nghiệp không chuyển
được các Ngài; các Ngài
có thể chuyển cảnh giới mà
cảnh giới không chuyển được
các Ngài; các Ngài có thể chuyển
quả báo mà quả báo không chuyển
được các Ngài !.
Thật ra, có thể khống chế
được nghiệp, song phải có
trí huệ. Nếu mình chỉ là thứ
si mê, vô minh, chuyên làm chuyện điên đảo
thì không thể nào khống chế
được nó.
Hỏi các
vị rằng :“Vì sao các vị muốn
làm chuyện điên đảo?“.
Các vị
đáp: “Không biết“. Vì không biết
cho nên cứ chạy theo nghiệp !.
Bởi vậy cho
nên không phải là đàn bà không có
khả năng thành Phật, cũng không
phải rằng Phật là dương mà
quỉ là âm. Tuy nhiên, cũng
có thể nói rằng Phật là thuần
dương, quỉ là thuần âm và con người
là nửa dương nửa âm !.
Không phải nam
là hoàn toàn dương và nữ
là hoàn toàn âm đâu ! Nếu quả thật
người nam là hoàn toàn dương
thì chẳng cần kết hôn với người
nữ làm gì và nếu người
nữ là hoàn toàn âm thì cũng không
cần kết hôn với người nam
làm gì. Bởi vì, sau khi kết hôn rồi
thì sẽ biến thành một nửa âm
một nửa dương, không còn thuần
âm hay thuần dương nữa.
Tu hành mà tu đến chỗ vô lậu, tức
là tới chỗ thuần dương. Nam
là dương nhưng trong dương có âm,
Nữ là âm nhưng trong âm có dương.
Do đó, sau khi kết hôn thì có năng lực
sinh con đẻ cái là vì âm dương kết
hợp mới biến hóa được.
Đó là cảnh giới tương đối.
Không phải rằng
nam là hoàn toàn dương hay nữ nhất
định là hoàn toàn âm. Trong kinh
Dịch có nói rằng :“Nhứt âm nhứt
dương, vị chi Đạo. Thiên âm, thiên dương,
vị chi tật“.
“Thiên“ nghĩa là cực
đoan, hễ thiên âm hay thiên dương thì
có bịnh tật, tức là sai lầm rồi.
Không có cực đoan thì gọi là
Trung, không có biến cải thì gọi
là Dung; đó là đạo lý Trung
Dung. Do đó, người nam đừng
cho rằng mình là hoàn toàn dương,
vì nếu thế thì tại sao lại muốn
kết hôn ?. Bởi người nam khi kết
hôn thì trong dương có âm và người
nữ khi kết hôn rồi thì trong âm
lại có dương; đó là vấn
đề âm dương trao đổi.
Bây giờ thế
nào gọi là “Người“ ?. Người
chỉ là cái tên giả. Trước kia tôi
đã từng nói nhiều lần rằng
lúc ban đầu chữ“người“
được đặt ra để
chỉ con người. Nếu lúc đầu
dùng chữ “chó“, thì bây giờ
mình đã gọi con người là
“chó“ rồi !. Cho nên dùng lâu thì
thành thói quen, chữ “người“
đó chỉ là một cái tên thôi.
Bây giờ đến
câu “Nhất âm nhất dương
chi vị Nhân“ nghĩa là một âm một
dương là người. Trong dương
có âm, trong âm có dương, trong mùa Đông
thì có ẩn tàng mùa Hạ, cũng
như trong mùa Hạ cũng có ẩn
tàng mùa Đông. Trong mùa Đông, tới
một lúc nào cũng có sanh ra dương
(Đông chí) và trong mùa Hạ, tới
một lúc nào đó sẽ sinh ra âm
(Hạ chí). Một năm là sự biến
hóa của âm dương. Âm mà tới cực
điểm thì thành dương, dương
mà tới cực điểm thì trở
thành âm. Vì vậy, con người sinh ra
là dương, chết đi là âm, cũng
đồng một đạo lý đó.
Chúng ta gọi
mình là “con người“, nhưng
lúc ban đầu nếu gọi con người
là “con gà“, thì chữ “gà“
đó gọi quen rồi sẽ không ai cho là
kỳ quái nữa. Cũng như đặt
tên một đứa bé la ̀“chó
con“ khi nó lớn lên rồi, nếu ai
gọi “chó con“ thì nó biết đó
là gọi tên nó. Đó chỉ là
cái tên và chỉ là cái tên giả thôi.
Người họ Trương thì nói
mình là họ Trương. Hỏi anh ta vì
sao họ là Trương; thì đáp rằng
bởi vì cha họ là Trương.
Hỏi ông Nội họ là gì; thì đáp
rằng cũng họ Trương. Lại
hỏi ông cố, ông tằng, ông tổ họ
là gì, ở đâu lại; truy ra tận
cùng thì anh chàng đó cũng không biết
được tổ tiên của mình là
họ gì nữa, bởi vì cái tên
giả mà thôi !.
Do đó,
đừng nên chấp trước,
đừng nói rằng tôi như thế
nọ hoặc tôi như thế kia. Bởi
vì nói gì rồi cũng có cái
“tôi“ trong đó, tức là có
lòng ích kỷ. Đã có ích kỷ
thì có phiền não. Nếu như không
cái “tôi“ thì không có lòng
ích kỷ, thế thì còn có gì phiền
hà đâu ?
Con người
vì sao mà nóng giận ? Là vì
cho rằng người khác đối với
mình không tốt, khinh mình, xử tệ
với mình, rồi sinh ra nóng giận. Nhưng
nếu họ làm gì có lợi cho
mình thì mình lại vui vẻ,sung sướng.
Đó điều là bị vô minh làm cho
mình động tâm vậy!
Hòa
Thượng Tuyên Hóa
(Vạn Phật Thành) |