XUÂN
L̉NG TRI KỶ
LÊ
ANH DŨNG
Ở
Trung Hoa, vào thời Chiến quốc (403-221 trước
công nguyên), Quản Trọng và Bào Thúc Nha là hai
bạn thân. Hùn vốn đi buôn, lúc phân chia lời
lăi Quản Trọng luôn t́m cách lấy nhiều
tiền hơn. Có người trách Quản tham, nhưng
Bào Thúc Nha bảo: “Anh Quản nhà nghèo, phải nuôi
mẹ, lấy nhiều tiền hơn là đúng
rồi.”
Thuở
đầu làm nhiều việc, Quản Trọng thường
thất bại. Có người chê Quản bất tài,
nhưng Bào Thúc Nha biện hộ: “Chẳng qua anh
Quản chưa tới thời mà thôi.”
Ra
chiến trường, Quản Trọng hay t́m cách lùi
lại phía sau. Có người cười Quản
chết nhát, nhưng Bào Thúc Nha lại bênh: “Anh
Quản c̣n mẹ già, nên phải cố giữ toàn
mạng sống để lo nuôi mẹ. Đó là
hiếu.”
Bào
Thúc Nha theo pḥ công tử Bạch. Về sau công
tử Bạch làm vua, xưng Tề Hoàn công.
Được Bào Thúc Nha tiến cử với
Tề Hoàn công, Quản Trọng nắm chức
tể tướng (cũng như thủ tướng
ngày nay), ra tài giúp vua Tề làm bá chủ các chư
hầu. Khi Quản sắp chết, vua Tề hỏi có
nên cử Bào Thúc Nha làm tể tướng thay vào
vị trí của Quản không, th́ Quản bác
liền. Quản nói làm tể tướng phải
giỏi chánh trị, mà chánh trị vốn hay trí trá;
Bào Thúc Nha là bậc quân tử, yêu điều
thiện, ghét điều ác, tà chánh phân minh, không
thể làm chánh trị được, vậy
chớ nên giao chức tể tướng.
Có
người trách Quản vong ân bạc nghĩa
với bạn, th́ Bào Thúc Nha đính chính: “Đó
là anh Quản biết lấy nghĩa công đặt
trên t́nh riêng, v́ nước chứ không v́ bạn.
Chẳng uổng công ta đă tiến cử anh
ấy với vua.”
Những
lời Bào Thúc Nha thanh minh cho Quản th́ Quản
đều biết rơ. Cho nên Quản rất cảm
khái, tán thán rằng: “Sinh ra ta là cha mẹ ta, mà
hiểu ta là Bào Thúc Nha.” (Sinh ngă giả, phụ
mẫu dă; tri kỷ giả, Bào Thúc dă.”
Câu
nói nổi tiếng của Quản Trọng đă
đi vào sử sách trong khoảng gần 2.500 năm
nay. Cũng từ câu nói đó, hai chữ tri kỷ
ở Trung Hoa và Việt Nam trở thành một từ
rất đẹp; sống trên đời này ai có
được bạn tri kỷ th́ sung sướng,
hạnh phúc vô cùng, v́ đó là người hiểu
được hết tâm tư, t́nh cảm sâu kín
của ḿnh.
Ở
Sài G̣n trước kia có ông Nguyễn Hiến Lê, tính
đến cuối đời đă viết và
dịch được 122 tác phẩm. Ở Nha Trang có
ông thầy giáo Châu Hải Kỳ. Hai ông chưa
hề gặp nhau, chưa thư từ cho nhau. Tuy nhiên,
chỉ đọc sách của ông Hiến Lê mà ông
Hải Kỳ có thể viết ra một quyển sách
300 trang, trong đó ông Hải Kỳ nói rơ về con
người và cuộc đời ông Hiến Lê y như
thể đă gần gũi, thân thiết nhau từ
thuở nào rồi. Khi ông Hải Kỳ vượt
448 cây số từ Nha Trang vào tận Sài G̣n
đưa bản thảo cuốn sách cho ông Hiến
Lê đọc, ông Hiến Lê cảm động
lắm. Trong Hồi kư (...), ông Nguyễn Hiến Lê viết: “Tôi
ngạc nhiên thấy ông đọc đủ các tác
phẩm của tôi (non 100 cuốn) mà đọc
rất kỹ nên biết rơ về đời tôi c̣n
hơn một số người thân của tôi
nữa mặc dầu chưa hề gặp tôi
lần nào.”
Ông
Châu Hải Kỳ quả xứng đáng là tri
kỷ của ông Nguyễn Hiến Lê vậy.
Văn
học c̣n kể nhiều chuyện thú vị làm
đẹp thêm cho t́nh tri kỷ. Chẳng hạn, nhân
vật Từ Hải trong truyện Kiều của
Nguyễn Du. Mới gặp Kiều lần đầu,
Từ Hải đă xem nàng là tri kỷ hiếm có
của ḿnh:
Nghe
lời vừa ư gật đầu,
Cười
rằng: “Tri kỷ trước sau mấy người!”
Sau
này, gặp Kiều lần nữa, Từ Hải
lại vẫn thừa nhận Kiều chính là
hồng nhan tri kỷ của ḿnh:
Từ
rằng: “Quốc sĩ xưa nay,
Chọn
người tri kỷ một ngày được chăng?”
Người
Hoa và người Việt xưa nay có sở thích dùng
thư pháp để trang trí pḥng ốc. Hai chữ
tri kỷ v́ thế cũng đi vào thư pháp.
Nhiều năm trước, chúng tôi t́m được
một bức thư pháp viết chân phương hai
chữ tri kỷ rất đẹp, bên dưới c̣n
điểm xuyết thêm hai câu thơ ngũ ngôn:
Hải
nội tồn tri kỷ,
Thiên
nhai nhược tỷ lân.
(Trong
nước hăy c̣n người tri kỷ,
Chốn
xa xôi cũng tợ như gần.)
Tất
cả những mẩu chuyện vừa rồi tưởng
cũng tạm đủ để giúp chúng ta
cảm nhận thêm ư nghĩa thâm thúy, sâu xa, tôn quư
của hai chữ tri kỷ. Nhưng câu chuyện
về hai chữ tri kỷ hôm nay không chỉ có
vậy.
Thật
thế, kể từ Bào Thúc Nha và Quản Trọng
thời Chiến Quốc cho tới thế kỷ 20 là
non 2.500 năm, t́nh tri kỷ tuy quư hiếm rất
mực nhưng dẫu sao cũng mới chỉ là tri
kỷ giữa con người với con người
trên chốn trần gian sớm nắng chiều mưa
mà thôi. Phải từ nửa sau thế kỷ 20
trở đi, qua cơ bút Cao Đài, t́nh tri kỷ
mới được biết đến, mới
được cảm thụ như một t́nh
cảm thiêng liêng, hy hữu, rất hy hữu,
bởi lẽ đây chính là t́nh tri kỷ giữa
con người trần gian với tiên thánh.
Sẽ
có người giật ḿnh khi thoạt nghe nói
rằng con người phàm tục mà có thể là
tri kỷ của tiên thánh. Giật ḿnh cũng là
lẽ thường dễ hiểu. Thật vậy,
ở đời, ngày ngày sống gần bên nhau,
trải mấy mươi năm, chắc ǵ mọi
người đă hiểu hết bụng dạ nhau.
Nguyễn Du há chẳng nói “Tri
kỷ trước sau mấy người” là ǵ!
Trong khi ấy tiên thánh là các đấng thiêng liêng
vô h́nh, kẻ hữu h́nh chưa từng nh́n
thấy bóng dáng th́ làm sao dám nói có t́nh tri kỷ?!
Vậy
mà vẫn có tri kỷ đấy. Nếu con người
trần gian chưa dám tin và không dám “phạm thượng”
nghĩ rằng ḿnh có thể là tri kỷ của các
đấng, th́ chính các đấng đă biết
bao lần tha thiết gọi khách tục cơi trần
này là tri kỷ của thánh tiên, cũng như đă
muôn vạn lần các đấng đến thế
gian, t́m kiếm tri kỷ trong số những người
trần tục.
Đầu
tháng 12 năm 1972, tại Minh lư Thánh hội (tức
Tam tông miếu ở đường Cao Thắng,
quận 3, Sài G̣n) đă có một trong nhiều
bằng chứng rất cảm động về t́nh
tri kỷ giữa hai cơi sắc không. Đó là t́nh
tri kỷ giữa đức Vạn Hạnh Thiền
sư và đạo trưởng Định Pháp Minh
Thiện (1897-1972).
Trong
tiền kiếp tại thế, Vạn Hạnh
Thiền sư sống vào đời Tiền Lê và làm
quốc sư đời nhà Lư nước ta (thế
kỷ 11). Chín trăm năm sau, khi Đại Đạo
Tam kỳ Phổ độ ra đời, đức
Vạn Hạnh Thiền sư là đấng thiêng liêng
vô h́nh vô ảnh, mượn đàn cơ và đồng
tử để trở về Việt Nam dạy
đạo qua ngọn linh cơ. Minh lư Thánh hội và
nhiều thánh sở Cao Đài v́ thế từng
nhiều lần được đức Thiền sư
ban ơn, giáng cơ giáo hóa.
Chuyện
xảy ra vào cuối năm 1972, đạo trưởng
Minh Thiện đang là siêu tịnh sư Minh lư Thánh
hội. Bấy giờ đạo trưởng Minh
Thiện 76 tuổi, đang trải qua cơn trọng
bệnh để rũ sạch nghiệp thân lần
cuối cùng trước khi thảnh thơi trở
về cơi phật.
Đầu
hôm đêm ấy, trong lúc đạo trưởng
Minh Thiện đang ngọa bệnh, không hầu
đàn được, đức Vạn Hạnh
Thiền sư giáng cơ và giảng cho bổn đạo
Minh lư Thánh hội một thời pháp. Cuối
thời pháp, đức Thiền sư gọi tên
một vị đang hầu đàn và dặn ḍ như
sau: “Bần tăng
nhờ đạo hữu Pháp Ấn cho Bần tăng
một ly bạch thủy để Bần tăng
họa phù trợ lực người bạn đạo
chí thân …”
Sau
khi ngài Minh Thiện quy thiên, ngày 07-12 Nhâm Tư
(10-01-1973) đức Chí Tôn giáng đàn tại Minh lư
Thánh hội, ban trao quyền pháp cho Ngài là Bát Nhă
Thiền sư Tam tông Pháp chủ. Rồi đến
ngày 27-02 Quư Sửu (31-3-1973), tại Bát nhă Tịnh
đường (ở Long Hải), đức Vạn
Hạnh Thiền sư giáng đàn cho biết: “Hôm
nay Bần tăng c̣n có thêm một nhiệm vụ khác
nữa, đó là hộ tŕ Bát Nhă Thiền sư
vừa hoàn kim thân đến nhập cơ tiền
để có luận đàm đạo sự cùng chư
đạo hữu.”
Thọ
Thiên sắc về nơi thiền thất,
Sứ
mạng dành đạo đức hoằng dương.
Huyền
vi trải khắp tứ phương,
Độ
người thiện chí lên đường thiện
căn.
T́nh
giao hữu đây hằng ghi nhớ,
Nghĩa
đạo đồng bao thuở quên nhau.
Chợt
nh́n biển rộng non cao,
Xưa
tri kỷ vui chung rượu cúc,
Nay
đạo đồng để chút lời khuyên,
Phù
sanh một kiếp không riêng,
Vô
thường bất đoạn căn tiên phải ǵn.
Câu
chuyện về đức Vạn Hạnh Thiền sư
và đức Bát Nhă Thiền sư chung quanh hai
chữ tri kỷ gợi cho chúng ta một câu hỏi
lớn: Khi nào th́ con người trần gian
được Ơn Trên, được các đấng
thiêng liêng coi là tri kỷ của các đấng?
Trả
lời câu hỏi này, cần nhớ rằng tri
kỷ có hai nghĩa, và cả hai ư nghĩa này đều
t́m thấy trong thánh ngôn thánh giáo Cao Đài.
Trước
hết, hăy nói về nghĩa thứ nhất. Tri
kỷ của ḿnh là người hiểu ḿnh,
hiểu cả chí hướng, tâm sự của ḿnh,
và sẵn sàng với ḿnh trong mọi việc.
Thậm chí c̣n hơn cả sẵn sàng, v́ từng có
không ít người vui ḷng hy sinh thân thế cho tri
kỷ của ḿnh. Theo nghĩa này, ai xứng đáng
là tri kỷ của các đấng thánh tiên?
Phải
chăng đó là những người hiểu
biết công việc của các đấng, chia
sẻ hoài băo, tâm tư của các đấng, và
sẵn ḷng hy sinh để tiếp sức cùng các
đấng thực hiện những công việc mà các
đấng thiêng liêng đang gánh vác?
Thực
vậy, tri kỷ của tiên thánh là như thế.
Đại Đạo Tam kỳ Phổ độ ra
đời, cứu cánh của Đại Đạo
về mặt nhân sinh là giải khổ cho thế
gian, xây dựng lại cơi đời thành một thiên
đàng hạnh phúc. Lư tưởng ấy được
thực thi trong tinh thần Thiên nhơn hiệp
nhứt. Có sức Trời mà cũng cần cả
sức người.
Khi
đức Chí Tôn xuống trần mở đạo
Cao Đài, Ngài lập đại nguyện rằng
nếu Đạo không thành th́ Thượng Đế
không trở về Bạch ngọc kinh. Lời đại
nguyện đó chấn động cả cơi
trời, phật tiên thánh thần hàng hàng lớp
lớp tùng theo đức Chí Tôn để giúp
Thầy mở Đạo, hoằng Đạo.
Nhưng
muốn mở Đạo và hoằng Đạo th́
cần phải có xác phàm để làm phương
tiện. Do đó rất nhiều bậc đại
tiên, bồ tát đă chuyển kiếp, mượn
thân tứ đại làm người Việt Nam trong
thời nước mất nhà tan để dựng
gầy mối Quốc đạo cho dân tộc.
Như
thế, khi mở Đại Đạo Tam kỳ
Phổ độ, các đấng thiêng liêng không
thể không mượn sức người để
hoằng giáo độ đời. Và ai c̣n thân xác,
trí tuệ, mà biết đem đời ḿnh, tim óc ḿnh,
dốc hết sức ḿnh tự nguyện làm phương
tiện để Trời Phật mượn nhờ
truyền đạo th́ công đức ấy rất
lớn, công quả ấy rất dày.
Tuy
nhiên không phải người trần gian nào cũng
biết hy hiến đời ḿnh cho Ơn Trên mượn
làm phương tiện trong Tam kỳ Phổ độ.
Trái lại, phải có căn duyên tiền kiếp,
phúc phận sâu dày thế nào đó, cho nên mới
tự nguyện nhận lănh vai tuồng cộng
sự với Trời hành đạo giúp đời.
Có nhận thức được như vậy
mới hiểu rơ v́ sao đức Đại tiên
Ngọc Lịch Nguyệt tán thán rằng:
Thiệt
quư giá phúc hồng hiếm có,
Bước
dặm trường đi đó đi đây,
Phổ
thông giáo lư đạo Thầy,
Thiêng
liêng nương đó giăi bày thiệt hơn.
Các
vị Tiền bối Cao Đài suốt một đời
tại thế trải thân hành đạo độ
đời, khi bỏ xác phàm trở về cơi tiên
vẫn không nguôi ḷng, vẫn muốn c̣n được
mượn thân phàm xác tục để giúp
Thầy hoằng đạo. Đại tiên Ngọc
Lịch Nguyệt là một trường hợp như
thế.
Đức
Đại tiên sinh thời thế danh là Lê Văn
Lịch (1890-1947), tiền kiếp là đại tiên nơi
Bạch ngọc kinh. Khi đức Thượng Đế
lâm trần lập Đại Đạo Tam kỳ
Phổ độ với tá danh Cao Đài Tiên Ông th́
Đại tiên cũng lập đại nguyện
xuống trần, chuyển kiếp về làng Long An,
quận Cần Giuộc, để làm nhục tử
của ngài Lê Văn Tiểng.
Thuở
đạo Cao Đài c̣n rất sơ khai, chưa h́nh
hiện, th́ ngài Lê Văn Lịch đă sớm
trở thành một trong những đại môn đồ
đầu tiên của đức Chí Tôn vào năm 37
tuổi. Từ đó, cho đến lúc bỏ xác
về trời, suốt 21 năm (1926-1947) ngài Ngọc
Lịch Nguyệt đă một dạ trung kiên, hy thân
phụng Thiên sự dân. Thế mà, khi trở lại
Bạch ngọc kinh, Ngài vẫn c̣n tiếc là không c̣n
xác thân hữu h́nh để dễ bề lập công
quả. Muốn tiếp tục hành đạo,
phải nương theo đàn em qua các đàn cơ
nơi cơi thế. Mùa xuân năm Ất Tỵ, đức
Ngọc Lịch Đại tiên tâm sự:
C̣n
ở tục dễ thừa hành đạo,
Nương
cơi đời giả tạo cái chân,
Có
nhiều phương tiện xa gần,
Để
mà khuyến thiện d́u nhân trở về.
Như
Bần đạo lỡ bề thoát tục,
Cơi
vô h́nh mấy lúc tiếc thương,
Tùng
tiên phật, chung một đường,
Muốn
d́u sanh chúng phải nương muội hiền.
Lời
dạy này của đức Đại tiên giác
ngộ cho chúng ta hăy biết quư thời gian và
mạng sống của ḿnh ở thế gian để
chăm lo tu học, siêng năng hành đạo. Đồng
thời, lời dạy này c̣n soi sáng cho chúng ta
hiểu thêm ư nghĩa thâm sâu của bốn chữ
Thiên nhơn hiệp nhứt và đó chính là lư do v́
sao người phàm nếu biết chọn con
đường cộng sự với Ơn Trên để
hoằng giáo độ đời th́ người phàm
đă tự ḿnh phá vỡ sự phân cách tục tiên,
phàm thánh để trở nên tri kỷ của thiêng
liêng các đấng.
Đức
Đại tiên Ngô Minh Chiêu, vị đệ tử
đầu tiên của đức Cao Đài Tiên Ông,
đă từng thay mặt toàn thể các vị
Tiền bối khai Đạo quá văng mà bày tỏ ḷng
ưu ái, tŕu mến đối với lớp đàn
em hôm nay đang tiếp nối con đường
của các ngài buổi trước. Đức Ngô
Đại tiên dạy: “Tuy
rằng tiên cảnh, dương trần có cách
biệt nhưng t́nh thương đương nhiên
của Tạo hóa vẫn đồng nhứt mỗi
người mỗi việc trong sứ mạng
thế Thiên hành hóa. Sự hiện diện của
lớp người hiện tại làm chúng Tiên huynh
hoan hỉ và cảm xúc vô cùng, muốn tặng nhau
những ǵ để thể hiện ḷng tri kỷ
…”
Những
lời chứa chan t́nh cảm ấy được
ban trao vào dịp Nguyên đán Tân Hợi. Đúng
một năm sau, ngay vào đêm Giao thừa năm Nhâm
Tư, đức Tôn sư Đông Phương Lăo
tổ lại đến. Sau khi giảng xong thời
giáo pháp khai xuân trên ngọn linh cơ, đức Tôn
sư đă thương yêu gởi đến
những khách tục trần gian như sau: “Đầu
xuân Nhâm Tư, Bần đạo đă ghi mấy ḍng
đạo lư vừa qua, để tặng các hàng hướng
đạo các nơi, để tặng những
bạn tri âm, những người tri kỷ trong
sứ mạng thế Thiên hành hóa, giáo dân vi
thiện.”
Đến
đây, tuy chưa thật sự đầy đủ
và trọn vẹn, nhưng khi ôn lại lời
dạy của các đấng như vừa rồi chúng
ta đă có thể lănh hội được ư nghĩa
thứ nhất của hai chữ tri kỷ trong thánh
ngôn thánh giáo Cao Đài.
°
Về
ư nghĩa thứ hai th́ sao? Người đời
hay nói đến bốn chữ tri bỉ tri kỷ.
Tri bỉ là biết người khác; tri kỷ là
biết chính ḿnh. Theo nghĩa này, con người
trần gian nếu biết ḿnh là ai, biết
nhiệm vụ hay sứ mạng của ḿnh ở cơi
đời này là ǵ, biết ḿnh phải làm ǵ để
hoàn thành sứ mạng vi nhân (sứ mạng mang thân
làm kiếp con người) th́ người trần
gian ấy được Ơn Trên gọi là tri
kỷ.
Thông
thường con người ít khi có thể tri
kỷ, nên ít khi biết được chính ḿnh. Nhưng
trong kỳ Ba đại ân xá, hằng hà sa số thánh
ngôn thánh giáo Cao Đài không ngừng khải
ngộ, khơi sáng thiên lương bổn giác,
nhờ thế mà ngót 80 năm qua đă rất
nhiều người có thể bừng tỉnh để
biết chính ḿnh, để tri kỷ và chọn con
đường tu học, hành đạo để
vừa giúp ḿnh hoàn thành sứ mạng làm người,
vừa phụ lực cùng các đấng thiêng liêng
trợ giúp cho những ai chưa tri kỷ sẽ cũng
kịp thời tri kỷ.
Khi
hiểu thêm ư nghĩa của tri kỷ là biết ḿnh
để t́m cho ḿnh con đường tu học và
hành đạo giúp đời, chúng ta nhận ra
rằng v́ sao những lời thiết tha mà các đấng
thiêng liêng thức tỉnh chúng sanh cũng chính là
tiếng gọi tâm huyết để t́m người
tri kỷ.
Chẳng
hạn, mùa xuân năm Đinh Mùi, đức
Thiện Pháp Nguyễn Bửu Tài, một tiền
bối của buổi đầu mở đạo
Cao Đài, khi từ cơi thiên thượng trở
về trần gian đă cất tiếng gọi
rằng:
Hỡi
ai, ai đó, ai tri kỷ,
Quảy
gánh đồ thơ đến động đào!
Động
đào tức là đào nguyên, là cơi tiên. Quảy gánh
đồ thơ đến động đào
tức là t́m con đường tu tiên, học làm tiên.
Mùa
xuân năm Tân Hợi, đức Vạn Hạnh
Thiền sư giáng trần cũng để t́m người
tri kỷ truyền trao chân lư, tức là chánh pháp
giải thoát. Đức Thiền sư dạy:
Đâu
quản công phu đến cơi trần,
Trong
kỳ mạt hạ độ sanh dân,
Tiếc
v́ chưa có người tri kỷ,
Trao
tận cơ mầu của lư chân.
Đạo
Cao Đài mở ra cho chung nhân loại, nhưng dân
tộc Việt Nam lại là dân tộc được
chọn để làm vai tṛ tiền khai, gieo mầm
ươm hạt. Cao Đài rồi sẽ là của
cả thế gian, nhưng trước hết
phải là Quốc đạo của ḍng giống
Lạc Hồng. Cho nên sứ mạng xây dựng
đạo nghiệp kỳ Ba c̣n nặng trĩu
cả một khối t́nh non nghĩa nước.
Vậy, ai sẽ là tri kỷ để góp sức ḿnh,
tim óc ḿnh cho cơ đồ dân tộc?
Câu
hỏi này vào mùa xuân Canh Tuất đă được
đức Đại tiên Lê Văn Duyệt nêu lên,
cũng là tấm ḷng kư thác của một danh tướng
ngày xưa gởi trao cho hậu thế hôm nay:
Cát
bụi mịt mù khắp thế gian,
Hỡi
ai tri kỷ gởi đôi hàng,
Non
sông một gánh c̣n dang dở,
Đạo
nghiệp muôn ḍng quyết đảm đang.
Ôn
học thánh ngôn thánh giáo Cao Đài, chúng ta nhận
ra rằng Ơn Trên đă rất nhiều dịp mượn
cơ bút khai xuân để thức tỉnh con người
hăy tri kỷ và hăy biết làm người tri kỷ
của Ơn Trên.
Tại
sao tiếng gọi tri kỷ lại thường
đến vào mùa xuân? V́ xuân là khởi đầu
của một niên tŕnh thay cũ đổi mới,
là niềm hy vọng tái tạo và tăng trưởng
sau một chặng đường quá khứ. Cho nên
những ai chưa tri kỷ th́ hăy nhân xuân về mà
tri kỷ để làm mới cuộc đời ḿnh;
c̣n những ai đă tri kỷ rồi th́ cũng nhân
xuân về mà tiến đức tu nghiệp để
đă đi th́ đi xa hơn và vững vàng hơn,
không phải ngậm ngùi lùi bước, tụt
lại phía sau.
Thánh
giáo Cao Đài v́ thế có nhắc lại câu nói
của hiền thánh ngày xưa: Xuân nhật nhật
tân, hựu nhật tân. Đă hiểu ư xuân là tái
tạo th́ mỗi ngày mỗi đổi mới đời
ḿnh, đă mới lại càng mới hơn nữa.
Mới đây không phải là lo sắm quần áo
mới, mua sắm mới hay tân trang xe cộ, nhà
cửa như thế thường ham muốn. Mới
đây là làm mới lại chính con người ḿnh,
nội tâm ḿnh, như lời đức Chí Tôn đă
dạy vào mùa xuân Canh Tuất:
“Mỗi
độ xuân về là mỗi lần các con tăng trưởng và cứ thế trong khoảng thời
gian này các con làm thế nào để mang lại cho ḿnh, cho mọi người một
nghiệp dĩ khả quan, tinh tiến để không uổng đi sự sống c̣n trước khi
bước vào nẻo tử.”
“(…)
“Đại
khái xuân đời, cảnh vật có chi các con! Cành
hoa chớm nở tươi xinh, các con nâng niu cành lá,
vun tưới gốc cây, ngửi mùi thơm trong
nhụy. Sao các con không vun tưới cội lành
Đạo cả, nâng niu sang sửa chơn tâm cho
thật tươi
nhuận sáng suốt để rồi ngửi
lấy đạo vị nhiệm mầu tự ḷng
con khai phát?”
Từ
lời dạy của đức Chí Tôn, chúng ta
ngẫm nghĩ thêm và nhận thức rằng nhân
loại hằng bao thế kỷ đă từng thưởng
xuân, vui xuân nhưng không phải tất cả đều
biết được cái nghệ thuật cao siêu
nhất của việc thưởng xuân, vui xuân
bằng tâm t́nh tri kỷ.
°
Hôm
nay, qua câu chuyện cuối năm Xuân ḷng tri kỷ
chúng ta có dịp đàm đạo với nhau về
t́nh tri kỷ giữa khách tục và tiên gia. Đề
tài này cũng có cơ duyên tạm khép lại cánh
cửa Hội trường Thuyết minh Giáo lư
của Cơ quan trong mấy ngày xuân mới. Trước
khi tạm chia tay, có lẽ mọi người chúng
ta cũng nên dành chút thời gian để nh́n
lại một chặng đường dài đă cùng
nhau trải qua.
Tính
đến nay, đạo Cao Đài sắp tṛn 80 năm
tuổi, và Cơ quan Phổ thông Giáo lư cũng
sắp tṛn cái tuổi 40. Trên con đường
bằng phân nửa chiều dài lịch sử
của Đại Đạo, Cơ quan được
ban trao sứ mạng đặc nhiệm là “phổ
thông giáo lư” để làm sao
Cho
người thông cảm cùng người,
Dẹp
tan sắc phái phục hồi t́nh thương.
Với
đặc nhiệm hóa giải phân ly và hàn gắn
rạn nứt, Cơ quan Phổ thông Giáo lư từng
được Ơn Trên ví như cây đàn, và nhân
sự Cơ quan ví như những nhạc công, như
người khảy đàn, tùng theo các đấng
thiêng liêng để dạo lên khúc nhạc tri âm,
tri kỷ.
H́nh
ảnh cây đàn và tiếng đàn tri âm, tri kỷ
đă sớm được đức Quan Âm Như
lai nói tới ngay khi Văn pḥng Phổ thông Giáo lư
khai mạc mới vừa hơn một tháng:
Chung
tay lo khảy nhịp đờn,
Tri
âm giáo lư chớ sờn chớ lơi.
Hai
năm sau đó, đức Giáo tông Vô vi Đại
Đạo lại nhắc đến h́nh ảnh Cơ
quan Phổ thông Giáo lư là cây đàn mà nhân sự Cơ
quan chính là những nhạc công:
Ví
nhạc công ôm đờn nhấn phiếm,
So
tơ đồng đúng điểm cung thương,
Gảy
lên những khúc can trường,
Ḷng
thanh cao lẫn du dương bổng trầm.
Cơ
quan ấy danh cầm huyền diệu…
Thực
sự th́, trong non bốn mươi năm qua,
những việc Cơ quan đă làm được hăy
c̣n quá khiêm tốn, quá nhỏ nhoi so với kế
hoạch và sứ mạng trọng đại do Ơn
Trên giao phó. Thế nên, từ trước tới
nay, các cấp chức vụ và nhân viên Cơ quan không
một ai dám có ḷng cống cao ngă mạn, không
một ai dám khinh suất tự nhận Cơ quan
Phổ thông Giáo lư là “danh cầm huyền
diệu”.
V́
vậy, cần phải nói rơ rằng câu “Cơ
quan ấy danh cầm huyền diệu”
vốn là lời đức Giáo tông dạy bảo.
Suy gẫm lời dạy của đức Giáo tông,
chúng ta có thể hiểu rằng, sở dĩ Cơ
quan được đức Giáo tông ưu ái
gọi là “danh cầm huyền diệu”
v́ lẽ Cơ quan là công cụ, là phương
tiện cuối cùng do đức Chí Tôn lập ra
để thực thi kế hoạch Thiên cơ.
Hơn
thế nữa, mỗi khi nhớ câu “Cơ
quan ấy danh cầm huyền diệu”
th́ từng thành viên của Cơ quan lại tâm tâm
niệm niệm tự nhắc nhở rằng đức
Giáo tông đă đưa ra tiêu chuẩn chất lượng
để toàn thể Cơ quan phấn đấu,
nỗ lực, cố gắng không ngừng, sao cho
đạt được tầm mức Ơn Trên
kỳ vọng th́ mới mong hoàn thành được
sứ mạng do Ơn Trên ban trao.
Trở
lại với h́nh tượng “cây đàn”. Phàm,
đánh đàn phải có người biết nghe
đàn. Người chịu nghe tiếng đàn Cơ
quan Phổ thông Giáo lư phải là người đồng
thanh khí, đồng điệu với Cơ quan trong
t́nh liên giao tu học và hành đạo. Đức
Giáo tông dạy:
Bậc
giác ngộ xây nền móng Đạo,
Trí
thông minh hoài băo Tam kỳ,
Liên
giao mở lối tương tri,
Bá
Nha âu phải Tử Kỳ ḥa âm.
Năm
Quư Mùi sắp hết. Tết Giáp Thân đang
ngấp nghé bên thềm. Thêm mùa xuân này nữa, Cơ
quan đă tiến đến rất gần điểm
mốc 40 năm của đường dài phổ thông
giáo lư. Từ năm 1965 đến nay, những ǵ Cơ
quan đă làm được hay chưa làm được
cần có thời gian để tổng kết và
đánh giá. Nhưng có một sự thật hiển
bày, ấy là trong ngót bốn thập niên qua,
tiếng đàn của Cơ quan đă không bao
giờ là tiếng đàn lạc lơng hay lẻ loi
trong sự ơ thờ của đồng đạo,
đồng bào xa gần.
Với
khả năng hiện hữu và trong hoàn cảnh cho
phép, nhờ ơn lành hộ tŕ, dẫn dắt
của Thầy Mẹ và các đấng thiêng liêng,
tất cả mọi người chúng ta đă nương
cậy nhau để … như lời dạy của
đức Lư Thái Bạch và đức Đông Phương
Chưởng Quản:
Cầm
đờn nhấn phím rao đờn,
Bản
bài dao động cung thương thâm trầm.
Đờn
cho biết tri âm tri kỷ,
Đờn
cho tường chơn lư mị tà,
Tiếng
đờn vang khắp gần xa,
Cho
người thức tỉnh nam kha giấc nồng.
Lẽ
thường, dịp hàn huyên cuối năm để
ôn t́nh tri kỷ tri âm, người đời thường
mời nhau chén trà thơm, chung rượu nồng,
hoặc tặng nhau chút lễ vật gọi là.
Buổi nói chuyện hôm nay trái lại chỉ có văn
chương, thơ phú để tạ ơn toàn
thể quư đạo tâm, đạo hữu suốt
một năm qua đă bền bỉ gắn bó
với Hội trường Thuyết minh Giáo lư
của Cơ quan. Nhưng chúng tôi tin chắc rằng
tất cả mọi người chúng ta đều
hoan hỉ, khi nhớ đến lời dạy yêu thương
của đức Ngô Đại tiên vào một mùa
xuân trước:
Tṛi
trọi lấy chi để tặng nhau,
Không
hoa, không quả, rượu bồ đào.
Chỉ
t́nh luyến ái ḷng tri kỷ,
Mượn
mấy vần thơ để tặng nhau.
Thế
th́, đê đầu cầu xin đức Vạn
Hạnh Thiền sư đại xá, kính cẩn
phỏng theo lời thơ của đức Thiền
sư để gởi đến toàn thể quư
vị rằng:
Tạm
biệt chia tay buổi cuối đông,
Mặt
vui gặp mặt thật ḥa đồng.
Đôi
câu thơ phú c̣n lưu lại,
Tri
kỷ cùng nhau một tấc ḷng.
Xin
trân trọng,
LÊ
ANH DŨNG
Nguyễn Bửu Tài, Cao Đài Hội thánh (Dương
Đông, Phú Quốc), Tuất thời, 14-3 Đinh
Mùi (23-4-1967).
Vạn Hạnh Thiền sư,
Minh lư Thánh hội, Tuất thời 25-9 Canh
Tuất (04-10-1970). Nguyên văn hai câu thơ 1-2
của đức Thiền sư như sau:
Tạm
biệt chia tay cơi sắc không,
Mặt
chưa gặp mặt vẫn ḥa đồng.
|