|
Tinh
hoa Cao Đài giáo
Nhân
Tử NGUYỄN VĂN
THỌ
Trích TINH
HOA CÁC ĐẠO GIÁO, Quyển II, tr. 570-583
NHÂN
TỬ VĂN xuất
bản (California 2002)
|
Cao Đài
giáo là một đạo tương đối
mới mẻ. Nó mới chính thức chào đời
năm 1926. Tuy nhiên, ta không nên đánh giá một
đạo giáo v́ đó là một đạo giáo
mới hay cũ, mà v́ nội dung nó hay, hay dở mà
thôi.
Cao Đài
giáo tin rằng ḿnh sẽ trường tồn
với thời gian, trong ṿng “thất ức niên dư”,
mỗi ức là mười vạn, mỗi vạn là
mười ngàn năm.[Đỗ
Vạn Lư, T́m hiểu
đạo Cao Đài . tr. 45.]
Cao Đài dùng cơ
bút để lập đạo.
Đại
đạo Tam kỳ Phổ độ.
Đại
đạo là ǵ? Thưa
là tinh hoa các đạo giáo xưa nay.
Tam
kỳ là ǵ? Đó là
tinh hoa các đạo giáo thiên hạ, của ba
thời kỳ, từ thượng cổ, trung cổ
và cận kim.
Phổ
độ là ǵ? Thưa
là muốn cứu rỗi mọi người,
chẳng trừ ai.
Đại
đạo Tam kỳ Phổ độ
ṇng cốt là theo tinh hoa Tam giáo (Nho, Thích, Lăo) nhưng
cũng tham khảo Thiên Chúa giáo, Bà La Môn, Hồi giáo,
v.v...
Hiểu Đại
đạo Tam kỳ Phổ độ như trên có
lẽ hay hơn. Khi c̣n ở Việt Nam, trong
những năm cộng tác với Cao Đài
[Cơ quan Phổ thông Giáo lư Cao Đài
giáo Việt Nam], đường Cống
Quỳnh, Sài G̣n, tôi đă chủ trương như
vậy. Đạo hữu Thiên Vương Tinh cũng
đồng ư với tôi, và trong Cao Đài
giáo lư, rằm tháng 2, năm Kỷ Mùi đă
viết một bài: “T́m
hiểu Đại đạo Tam kỳ Phổ độ”
rất sâu sắc, nơi các tr. 40-48.
Sang Hoa Kỳ, đọc
quyển Lịch sử
đạo Cao Đài của
Lê Anh Dũng, tôi thấy Anh luận về mấy
chữ Đại đạo Tam kỳ Phổ độ
rất là cao siêu.
Anh nhận định:
“Kỳ Ba diễn ra
từ sau nửa thế kỷ XIX.”
Anh suy luận
tiếp: “Trong hai
thời kỳ trước, các nền tư tưởng
triết giáo tiêu biểu nói trên, c̣n bị ngăn cách.
Sang kỳ Ba, thế giới ngày một gần
lại, con người đă chinh phục được
khoảng cách thiên nhiên. Phương tiện ấn
loát và thông tin ngày càng phát triển cùng với phương
tiện giao thông đă góp phần đưa các
nền tư tưởng gần lại, giao lưu
với nhau.
“Kỳ
Ba như vậy có một đặc sắc riêng là
xu thế dung ḥa và tổng hợp tư tưởng
Đông Tây kim cổ.
“Năm
1863, tại Iran, Baha Ulla sáng lập đạo Bahai,
chủ trương các tôn giáo đều
có chỗ đại đồng.
“Năm
1875, tại Hoa Kỳ, bà Blavatsky (người Nga)
lập trụ sở Thông thiên học ngay tại New
York. Năm 1879, trụ sở này rời về Ấn
Độ, đặt tại Madras. Thông thiên học
đề cao chân lư đại đồng, hướng
con người thoát ra vỏ ốc tôn giáo (religions)
để tiến lên Đại đạo
(sur-religion) bằng cách nêu tiêu ngữ: “Không tôn giáo
nào vượt qua chân lư.”
“Các
triết gia, học giả đă làm nổi lên phong
trào đối chiếu và tổng hợp tư
tưởng triết giáo, nhằm nỗ lực
định hướng con người gần
lại nhau trong tư tưởng đại đồng,
vạn giáo nhất lư.
“Cuối
thế kỷ XIX đă có hai sự kiện đáng
kể:
“-
Năm 1893, Đại hội tôn giáo thế giới
được triệu tập tại Chicago (Hoa
Kỳ).
“-
Năm 1900, Hội nghị quốc tế về
lịch sử tôn giáo (lần I) được
triệu tập tại Paris (Pháp).
“Hai
sự kiện trên đă mở đường cho
những hoạt động nhằm cổ vũ cho
một lư tưởng ḥa đồng tôn giáo và dung
hợp tư tưởng vào các thập niên kế
tiếp. Chẳng hạn:
“-
Năm 1939, Radhakrishnan dạy Tôn giáo đối
chiếu tại Đại học Oxford (Anh).
“-
Năm 1959, Viện Văn hóa Pháp và Đại
học Paris mở khoa Tôn giáo đối chiếu.
“-
Năm 1960, Hội nghị quốc tế về
lịch sử tôn giáo (lần X) được
triệu tập tại Marburg (Đức).
“-
Năm 1961, Đại học Chicago và Đại
học Yale (Hoa Kỳ) xuất bản các tậïp san
định kỳ làm diễn đàn cho phong trào
đối chiếu và tổng hợp triết giáo.
“-
Năm 1963, Đại học Sorbonne (Pháp) mở khoa
Triết lư đối chiếu...
“(…) Theo A.J. Bahm, “tiềm
tàng trong bản chất của tôn giáo là mỗi tôn
giáo đều tự nhiên t́m cách trở nên đại
đồng và (...) các tôn giáo trên thế giới
sẽ có xu thế hướng về một nền
tôn giáo toàn cầu”.
“(…) Sự chuyển
biến nhận thức về tôn giáo trong hai ư hướng
chủ yếu (a) toàn cầu và (b) hiện đại,
tựu trung chính là sự nhận thức về nhu
cầu mới của nhân loại đang khao khát
một nền đạo đại đồng vượt
mọi biên cương, chủng tộc. Suốt
thế kỷ XX, ở nhiều nước đă có
nhiều hoạt động phục vụ cho lư tưởng
này. Tất cả nh́n riêng, là một khâu, một
mắt xích trong toàn chuỗi xích của phong trào
vận động và t́m kiếm cho nhân loại
một Đại đạo.
“(…)
Ở trên đă nói về hai chữ
Tam kỳ. Hai chữ Đại đạo bao hàm cái
nghĩa vượt lên tôn giáo cố hữu của
nhân loại. Nói cách khác, Đại đạo là siêu
tôn giáo (sur-religion), hai chữ
Phổ độ ngụ ư rằng đối tượng
cứu rỗi là toàn thể chúng sanh (universalism).
[Lê Anh Dũng, Lịch
sử đạo Cao Đài , tr. 18-23.]
Đọc kỹ
những lời lẽ trên, ta thấy hiện ra
những tư tưởng sau đây:
1. Con người
đang khao khát đi t́m một chân lư đại
đồng. Ngay đạo Công giáo nay cũng chủ
xướng ḥa đồng tôn giáo.
2. Cao Đài
chủ trương đại đồng, và
vạn giáo nhất lư.
3. Cao Đài
cho rằng các tôn giáo nay đă mất phần
tinh hoa, phần chân truyền. Và Thượng đế
khai đạo kỳ này, là muốn dạy lại
cho nhân loại phần tinh hoa, mật truyền
ấy.
4. Cho nên Cao Đài
chia đạo ḿnh thành hai phần: Phần vô
vi, tức là phần chân truyền. Phần pḥ loan
hay phổ độ, là phần tôn giáo thông thường.
5. Đạo hữu
Thiên Vương Tinh, trong bài T́m
hiểu Tam kỳ Phổ độ, đă viết
rơ: Đại đạo Tam kỳ Phổ độ
và Tôn giáo Cao Đài .
6. Thượng đế
dạy lại con người phần vô vi; những
giáo hữu [tín đồ] tuệ giác, tuệ căn
lại gắng nghiên cứu phần vô vi mà nay
thế giới gọi là đạo huyền đồng
(mysticisme) hay thiên nhân hợp nhất trong các đạo
giáo, th́ trước sau ǵ chân lư cũng hiện ra
cho mỗi người.
Tôi không là Cao Đài,
nhưng tôi kính phục đường hướng
trên, và cũng muốn đóng góp vào đó một
phần nào.
Tại
sao gọi là Đạo Cao Đài ?
“Theo truyền tụng, trong Ấu học quỳnh lâm,
có câu “Đầu thượng viết Cao Đài
.” Léon Wieger, trong sách Chinois
parlé (Sienhsien, 1936, p. 133),
dịch Đầu thượng
là Au commencement
(thoạt kỳ thủy, khởi đầu).
Nhiều người lại hiểu Đầu thượng là Trên đầu.
“Hiểu theo Wieger th́ “Thoạt kỳ thủy là
Cao Đài ”, phù hợp
với quan niệm Cao Đài
hay Thượng đế là nguyên nhân đầu tiên của vũ
trụ vạn vật, là Alpha như Tân ước
đă chép.
“C̣n hiểu “trên đầu là Cao Đài ” th́
phù hợp với huyền học đạo Lăo. Theo
đạo Lăo, trên đầu có nê hoàn cung, là nơi
Thượng đế nội tại. Đức
Đông Phương Lăo tổ dạy:
Thử
hỏi Cao Đài ở
chốn nao?
Người
tu trở lại, trở về đâu?
Phải
chăng t́m đến Cao Đài
thượng,
Đài
thượng vô vi tại đỉnh đầu.
[Lê
Anh Dũng, Lịch
sử đạo Cao Đài , tr. 70-71.]
Thánh
giáo sưu tập 1968-69
nơi trang 5, cho biết chỗ cất giấu ch́a
khoá thiêng, để mở cửa nhiệm huyền.
“Bao nhiêu huyền bí, thiêng
liêng, nhiệm mầu, siêu việt, nhưng ch́a khoá
mở, Đức Chí tôn đă đặt trong
chỗ cao nhất của mỗi người, hăy t́m
lấy, và mở lấy, hỡi chư hiền.”
Chỗ cao nhất
trong con người là ở đâu?
Thưa là nê hoàn
cung, là năo thất ba, nơi tâm điểm đầu
năo con người. Cửa Trời ở đấy,
Thiên nhăn ở đấy, Thượng đế
ở đấy, Thiên thai cũng ở đấy.
Đại
thừa chơn giáo nơi trang 61, viết:
“Chữ
Cao Đài là ǵ? Là
côn lôn đỉnh, hay là nê hoàn cung, thuộc về
Thượng giới... Thiên môn là cái ǵ? Là cái
khiếu nê hoàn cung đó.”
Cao
Đài giáo lư số 89, viết [trích thánh giáo]:
Tỉnh
giấc chiêm bao, ớ trẻ bày,
Đừng
c̣n non núi, hoặc cung mây.
Cao Đài
vẫn ở ḷng con đó,
Bỏ
tính tham lam sẽ gặp Thầy.
Như vậy, Cao Đài
hay Thượng đế xưa nay không bao
giờ rời xa con người, mà vẫn luôn ở
sẵn trong ḷng con người, và là bản thể
con người. Cao Đài
là bản thể con người, ngự trị
trong giữa đầu năo con người.
Xưa Môisen hỏi tên
Thượng đế. Ngài trả lời: “Ta
là bản thể”.[Deus
ad Moysen: Ego sum quy sum. Ex 3, 14.]
Câu này, cho đến
nay, ít ai hiểu nổi. Cũng y như Thượng
đế mới đầu xưng là AĂÂ.
Đức Cao Đài
c̣n xưng ḿnh là: Cao Đài Tiên ông Đại
bồ tát Ma ha tát.
Cao Đài
biểu thị cho Nho giáo.
Tiên ông biểu
thị cho Tiên giáo.
Đại bồ tát
Ma ha tát biểu thị cho Phật giáo. [Xem
Đồng Tân, T́m
hiểu đạo Cao Đài ,
tr. 39-40.]
Ngài c̣n xưng:
Nhiên
Đăng Cổ Phật thị Ngă,
Thích
Ca Mâu Ni thị Ngă.
Thái
Thượng Ngươn Thỉ thị Ngă,
Kim
viết Cao Đài.
[Thánh
ngôn hiệp tuyển, tr. 14.]
Ngài cũng c̣n
dạy:
...Tên
là cái giả triền miên muôn đời,
Xuống
lên, lên xuống luân hồi,
Đến
tên Ngọc đế mấy hồi đổi thay,
Khi
xưng Giáo chủ Cao Đài ,
Khi
xưng Thiên Chúa, khi khai Di Đà,
Lắm
hồi Bồ tát Ma ha,
Bao
lần Khổng Mạnh cũng Già này đây.
[Xem
Đỗ Vạn Lư, T́m
hiểu đạo Cao Đài, tr. 31.]
Như vậy, chung
quy đều là giả danh, tá danh. Đúng là: Đạo
khả đạo, phi thường Đạo; Danh
khả danh, phi thường danh. [Đạo đức
kinh, Chương I.]
Biểu
tượng Cao Đài: Thiên nhăn.
Thượng đế
dạy Đức Ngô Minh Chiêu lấy Thiên nhăn làm
biểu tượng cho đạo Cao Đài, tại
Phú Quốc vào năm 1921.
Trong một đàn cơ
ngày 31 tháng Giêng năm Bính Dần (25-02-1926), Đức
Cao Đài dạy tại sao lại dùng Thiên nhăn mà
thờ như sau:
“...Chưa
phải hồi các con biết đặng tại sao
vẽ thánh tượng Con Mắt mà thờ Thầy,
song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh:
“Nhăn
thị chủ Tâm
Lưỡng
quang chủ tể
Quang
thị Thần
Thần
thị Thiên
Thiên
giả Ngă dă.
“Thần
là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm
từ ngày đạo bị bế. Lập Tam kỳ
Phổ độ này, duy Thầy cho thần hiệp
tinh, khí đặng đủ tam bảo là cơ
mầu nhiệm siêu phàm, nhập thánh.
“Từ
ngày bế đạo, th́ luật lệ hăy c̣n nguyên,
luyện pháp chẳng đổi, song Thiên đ́nh
mỗi phen đánh tản thần không cho hiệp cùng
tinh, khí. Thầy đến để hoàn nguyên chơn
thần cho các con đắc đạo.
“Con
hiểu: Thần cư tại nhăn. Bố trí cho chư
đạo hữu hiểu rơ nguồn cội Tiên
Phật yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên
các con mỗi phen nói đạo, hằng nhớ danh
Thầy.”
Trong mấy câu
ngắn gọn kể trên, bao gồm nhiều ư nghĩa
quan trọng.
1. Thượng đế
xưng ḿnh là Ánh Sáng, là Thần ở ngay trong đôi
mắt ta.
2. Ngài cho rằng xưa
nay Thần con người đă bị Thiên đ́nh
đánh lạc.
3. Nay Ngài đến
để trả lại Thần cho con người.
Như vậy Thượng
đế tuyên xưng Ngài là Ánh Sáng là Thần, là
Bản thể con người, ở ngay trong mắt
ta.
Ngài nói con người
đă bị tản thần, th́ trong Genesis
cũng viết: “Thần
của ta sẽ không c̣n lưu tồn măi nơi loài
người, bởi chúng là xác thịt. Ngày đời
của chúng là 120 năm.” [Gen
6, 3.]
Công giáo cũng
vẫn cho rằng: Con người chỉ có Xác và
Hồn, không có Thần.
Tiên tri Joel hứa Chúa
trả lại Thần cho con người. “Sẽ
xảy ra là sau đó ta sẽ đổ Thần ta trên
mọi xác phàm.” [Jl, 3,1.]
Cao Đài
dạy ta đừng quên là ta có Thần Chúa
trong ta. Những câu này, thiệt đáng ghi nhớ.
Vô
vi và Phổ độ.
Thượng đế
lập Cao Đài gồm
hai thành phần: Vô vi và Phổ độ.
Vô
vi.
Ngài truyền Vô Vi
cho đức Ngô Minh Chiêu từ 1921.
Phổ
độ.
Ngài truyền Phổ
độ cho nhóm Pḥ loan từ 1925. Nhóm Pḥ loan
gồm các ông Cao Quỳnh Cư (1887-1929), Cao Hoài Sang
(1900-1971), Phạm Công Tắc (1890-1959), và sau này có thêm
những ông Nguyễn Trung Hậu (1892-1961), Lê Văn
Trung (1895-1934), Lư Trọng Quí, Lê Văn Giảng, Vơ Văn
Sang, Nguyễn Văn Hoài, Đoàn Văn Bản, Vương
Quan Kỳ (1880-1940), v.v...
Có bảy đàn tiên
đầu tiên là:
1. Đàn phố Hàng
Dừa của nhóm Cao Quỳnh Cư, Phạm Công
Tắc.
2. Đàn Cầu Kho
của nhóm Đoàn Văn Bản, Nguyễn Trung
Hậu, Trương Hữu Đức, Vương
Quan Kỳ, Lê Văn Giảng, Nguyễn Văn Mùi,
v.v…
3. Đàn Chợ
Lớn do nhóm Lê Văn Trung, Cao Hoài Sang, Cao Quỳnh
Diêu, Lê Bá Trang.
4. Đàn Lộc Giang
tại chùa Phước Long của nhóm Trần Duy Nghĩa,
Trương Văn Tràng, Mạc Văn Nghĩa.
5. Đàn Tân Định
của nhóm Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc,
Nguyễn Ngọc Thơ.
6. Đàn Thủ
Đức của nhóm Ngô Văn Điều,
Huỳnh Văn Mai, Vơ Văn Nguyên.
7. Đàn Tân Kim
của nhóm Nguyễn Văn Lai, Ca Minh Chương,
Phạm Văn Tươi. Có các ông Lê Văn
Lịch, Nguyễn Ngọc Tương, Phạm Văn
Tiếp, v.v...hầu đàn.
Sau này c̣n thêm
được những đại đệ tử
như: Nguyễn Ngọc Tương (1881-1951), Lê Văn
Lịch (1890-1959), Trần Đạo Quang (1870-1946).
Đạo Cao Đài
chính thức ra đời [lập Tờ khai
Đạo] ngày 07-10-1926, và có 28 vị kư tên.
Buổi khai đạo,
Đức Cao Đài cũng
đă đem được Ngũ chi về theo Cao
Đài .
Ngũ chi là:
1. Chi Minh Đường
của ông Lê Văn Lịch.
2. Chi Minh Sư
của Trần Đạo Quang.
3. Chi Minh Tân của Lê
Minh Khá.
4. Chi Minh Thiện
(Hạnh Thông Tây, Gia Định), thường thiên
về quốc sự. Chi này quy tụ nhiều trí
thức buổi đầu như Trần Hiển
Vinh, Nguyễn Phan Long, v.v...
5. Chi Minh Lư của Âu
Kiết Lâm.
Do đó mà tôn
chỉ đầu tiên của Cao Đài
là Tam giáo quy nguyên, Ngũ chi phục
nhứt.
Sau này các môn đệ
Cao Đài chia làm nhiều chi phái như:
* Vô vi (1920) Chiếu
Minh Đàn của Ngô Minh Chiêu.
* Phổ độ
(1926) Lê Văn Trung và các ông Cư, Tắc, Sang,
Hậu.
* Bến Tre (1938):
Nguyễn Ngọc Tương.
* Tây Ninh (1938):
Phạm Công Tắc.
* Cầu Kho (1930): Vương
Quan Kỳ.
* Minh Chơn Lư
(1931-1935): Nguyễn Văn Ca (Định Tường).
* Tiên Thiên (1932):
Nguyễn Hữu Chỉnh (Cai Lậy).
* Minh Chơn Đạo
(1935): Cao Triều Phát (Cà Mau).
Chi Nhánh, chi phái
rồi ra cũng sẽ hợp nhất.
“Bửu
toà thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy
nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung
hiệp rán vun nền đạo đức,
Bền
ḷng son sắt, đến cùng ta.
“Cái
nhánh các con là nhánh chính ḿnh Thầy làm chủ, sau các
con sẽ hiểu...” [Thánh
ngôn hiệp tuyển, tr.
7, đàn 20-02-1926.]
Thế
nào là Vô vi?
Vô vi là phần cao siêu
nhất trong một đạo giáo. Người theo vô
vi phải có tuệ căn, phải có tŕnh độ
tu luyện, phải nắm vững được cái
cao siêu bí diệu của đạo giáo. Cao Đài
chỉ có một ḿnh Đức Ngô Minh Chiêu là
theo được vô vi. Ngài không tham quyền cao,
chức trọng, sẵn sàng từ bỏ chức Giáo
tông (24-4-1926), và tách rời đám Phổ độ.
Người theo vô vi
trông thấy Trời, thấy Bản thể vũ
trụ, thấy Lương tâm trong ḷng ḿnh.
Phần vô vi trong Cao
Đài chính là toát
lược tâm pháp triết học,
và Đại đạo chân truyền.
Tâm pháp triết
học là ǵ?
Thưa là thuyết
Thiên địa vạn vật đồng nhất
thể. Đại khái chủ trương:
1. Vũ trụ
hữu h́nh này là phân thể của một toàn
thể, đă được phóng phát, tán phân ra.
2. Như vậy,
vạn hữu đồng căn nhưng dị
dạng, nhất thể vạn thù.
3. Thượng đế
tiềm ẩn trong giữa ḷng quần sinh, vũ
trụ.
4. Giác ngộ là
biết rằng con người có Bản thể Thượng
đế, có tính Trời.
5. T́m Trời, t́m
Đạo phải t́m trong ḷng, phải đi vào
nội tâm.
6. Lúc chung cuộc,
vạn vật sẽ siêu thăng, trở về
với Thượng đế. Thế là vạn
vật tuần hoàn, chung nhi phục thủy.
7. Vũ trụ,
lịch sử chuyển hoá hai chiều, văng lai,
thuận nghịch, thành một chu kỳ.
Đạo hữu Thiên
Vương Tinh viết: “Thiên địa vạn
vật nhất thể theo
Cao Đài giáo là
một Nguyên lư, là Chân lư, là Đạo chứ không
phải chỉ là một quan niệm, một chủ
trương hay một học thuyết.”
“Nguyên lư Thiên địa
vạn vật nhất thể được minh xác
qua thánh ngôn, thánh giáo.” [Cao
Đài giáo lư,
Rằm tháng 2, năm Kỷ Mùi, tr. 42.]
Cao Đài
chủ trương: Trời người đồng thể:
Con
là một thiêng liêng tại thế,
Cùng
với Thầy đồng thể Linh quang.
[Thánh
giáo sưu tập, 66-67, tr. 36.]
Hoặc:
Thật
là diệu diệu huyền huyền,
Trời
người có một, chẳng riêng khác ǵ.
[Đại
thừa chơn giáo, tr. 65.]
Hoặc:
Người
là tiểu thiên địa đó,
Người
với Trời nào có khác chi.
Hễ
Trời có những món ǵ,
Người
người đều cũng đủ y như
Trời.
[Đại
thừa chơn giáo, tr. 65.]
Chẳng những
vậy, muôn loài cũng đồng bản thể như
nhau:
Đạo
là nơi nhất nguyên chủ tể,
Đạo
cũng là đồng thể vạn linh.
[Thánh
giáo sưu tập 1966-1967, tr. 35.]
Như vậy, con người
và vạn vật đều đồng bản
thể với Đạo, với Trời. Chính
từ cơ sở Thiên địa vạn vật
nhất thể mà phát sinh chủ trương ái nhân,
ái vật. T́nh huynh đệ đại đồng
theo Cao Đài giáo, không phải chỉ là t́nh
của người với người, mà chúng sinh,
vạn hữu đều là huynh đệ anh em, trước
sau trên bước đường tiến hoá.
Đạo
tuy định nghĩa khắp muôn phương,
Căn
bản làm đầu một chữ Thương.
Thương
chúng, thương ḿnh, thương tất cả,
Th́
đem chơn đạo sớm hoằng dương.
[Thánh
giáo sưu tập 1972-1973, tr. 157.]
Cao Đài
hứa cho con người quy nguyên phản
bản, Thiên nhân hiệp nhất, phục hồi nguyên
thần.
“Chỉ
một cái Tâm, Tâm vũ trụ,
Thoát
ly vạn tướng, phục nguyên thần.”
[Thánh
giáo sưu tập 1972-1973, tr. 78.]
Cao Đài
chủ trương con người có ba
phần: Thần; Khí (Hồn); Tinh (Xác).
Thần là Trời, là
phần bất biến trong con người. C̣n
gọi là nhị xác thân hay Đạo tâm, hay Nguyên
thần hay Chơn thân.
Nhị xác thân, hay Chơn
thân là cái xác thân vững bền muôn kiếp,
sống măi bằng Trời, không tử, không sanh, không
thêm, không bớt. Luyện đặng cái Chơn thân
ấy, th́ trường sinh, bất tử, khỏi
phải chịu quả báo, luân hồi, đời
đời, kiếp kiếp an hưởng vui chơi
nơi bồng lai, tiên cảnh. Ấy là Chơn nhân
vậy... [T́m
hiểu đạo Cao Đài, Đồng Tân, tr.
39. Đại thừa chơn
giáo, tr. 356, Xuất thần.]
Khí tức là Hồn
con người đầy thất t́nh, lục
dục, biến hoá, vô thường, luân hồi, sinh
tử.
Tinh tức là
phần Xác.
Những người
theo vô vi sau này tu theo kinh Đại thừa chơn giáo
của phái Chiếu Minh (Ngô Văn Chiêu), và kinh này
rất được ngưỡng mộ. Từ
17-7-1997 tại hải ngoại lại có một đàn
do đức Ngô Minh Chiêu giáng cơ, nhan đề là
Thánh ngôn học đạo. Văn
chương tề chỉnh, ư tứ cao siêu, mục
đích:
Dạy
người trở lại Huyền Khung,
Lập
đời thượng cổ, khắp trong hoàn
cầu.
(Đàn
ngày12-8-1997)
Hoặc:
Tâm
con chính thị Thiên toà,
Gặp
Thầy nơi đó, há mà t́m đâu.
Chừng
nào con chứng Ni Mâu,
Th́
Thầy ứng hiện minh châu nơi ḷng.
(Đàn
ngày 14-8-1997).
Hoặc:
Phước
thay sinh được làm người,
Là
cơ hội học làm Trời, nghe con.
(Đàn
ngày 19/8/97).
Hoặc:
Ṿng
vo vạn nẻo xa xăm,
Nào
ngờ Trời Phật nơi tâm của ḿnh.
Con
ơi dạ nhớ đinh ninh,
Thầy
luôn luôn ở bên ḿnh con nghe.
(Đàn
ngày 19/8/97).
Hoặc:
Trải
bao kiếp nhờ vào tiến hoá,
Nay
nhân loài đă quá vơ môn,
Đă
thành chính đẳng Chân nhân,
Nhận
ra bí nhiệm lư chân đời người.
Nhận
ra được Trời người đồng
thể,
Trời
với người chẳng phải hai ngôi.
Vốn
là Thiên điển mà thôi,
Vận
hành lưu chuyển, xiết ôi diệu kỳ.
Kỳ
diệu thay huyền ky máy Tạo,
Người
với Trời vốn Đạo mà thôi.
Tầm
phăng hiểu được con người,
Tự
nhiên sẽ hiểu được Trời khó chi.
(Đàn
ngày 11-9-1997 giải về Thiên nhân đồng
thể, vạn pháp đồng căn...)
Ư
nghĩa Phổ độ.
Phổ
độ là phần sáng
lập một tôn giáo, cũng đủ mọi
phần lễ nghi, h́nh thức, lề luật, giáo
điều. Đó là phần chi tiết, cho những
người sơ cơ, bước vào đường
Đạo. Phổ độ chung quy sẽ phải nhường
bước cho vô vi, v́ vô vi mới là chủ đích
chính yếu của Cao Đài .
Nhân
Tử NGUYỄN VĂN THỌ
*
|