TIẾNG
NÓI TRI ÂM
Bài
nói chuyện tại Cơ quan Phổ thông Giáo lư Đại đạo
9.00
sáng Chủ nhật 08.4.2001 (15.3 Tân Tỵ)
LÊ
ANH DŨNG
Audio - Nghe bài
"Tiếng nói tri âm"
Bá
Nha nước Tống chơi đàn tuyệt
giỏi, thường phàn nàn thiên hạ không ai thưởng
thức được tiếng đàn của ông.
Một lần đi sứ nước Sở, trở
về đến sông Hàm Dương, trăng thanh gió
mát hữu t́nh, Bá Nha cho quân ghé thuyền vào bờ,
đem đàn ra khảy. Nửa chừng đàn đứt
dây. Đoán có người ŕnh nghe trộm, Bá Nha sai
quân lính lên bờ lục soát, bắt được
người đốn củi là Tử Kỳ.
Tử
Kỳ thanh minh rằng ông không phải quân bất lương,
chỉ t́nh cờ nghe tiếng đàn quá hay nên
dừng chân thưởng thức. Bá Nha hỏi:
Hồi năy ta đàn bản ǵ? Tử Kỳ đáp:
Thưa quan, là bản Khổng tử khóc Nhan Hồi.
Bá
Nha giật ḿnh, trân trọng mời Tử Kỳ
xuống thuyền. Nắn phím so dây, Bá Nha vừa
đàn vừa nghĩ tới cảnh non cao. Tử
Kỳ tấm tắc: Tiếng đàn ngài cao vút, tâm
chí ngài ṿi vọi tại núi cao (Nga
nga hồ chí tại cao sơn). Khi Bá Nha chuyển
ư, nghĩ đến cảnh nước chảy.
Tử Kỳ tán thán: Tâm chí ngài cuồn cuộn như
nước chảy (Dương
dương hồ chí tại lưu thủy).
Bá
Nha vô cùng sung sướng, bởi v́ Tử Kỳ
chỉ cần nghe tiếng đàn mà biết rơ tâm
chí của ḿnh. Không nệ kẻ là quan thượng
đại phu, người chỉ là ông tiều
kiếm củi, Bá Nha kết bạn với Tử
Kỳ. Do tích này, hai tiếng tri
âm được dùng để nói về
những người hiểu thấu bụng dạ
nhau, dù có thể chưa biết mặt, chưa quen
nhau.
Giả
Đảo (788-843) đời Đường khổ
công làm thơ, trong ba năm được hai câu tâm
đắc, rồi không khỏi cảm khái:
Nhị
cú tam niên đắc,
Nhất
ngâm song lệ lưu.
Tri
âm như bất thưởng,
Quy
ngọa cố sơn thu.
Lê
Anh Dũng dịch:
Ba
năm làm được hai câu,
Một
lần ngâm để rơi châu đôi hàng.
Tri
âm như chẳng hiểu chàng,
Quay
về núi cũ nằm tràn với thu.
Người
b́nh dân cũng thèm có bạn tri âm. Ca dao Việt Nam
có câu:
Mông
mênh góc biển chân trời,
Biết
trong thiên hạ ai người tri âm?
Như
vậy, diễm phúc to lớn là có tri âm. Thiếu
tri âm là một thiệt tḥi, trống vắng không ǵ
bù đắp.
Từ khi ra đời tới nay, qua ba phần tư
thế kỷ, có một điều hy hữu thế
gian là t́nh tri âm không hề thiếu vắng trong
đạo Cao Đài. Người tín đồ
mặn mà với Đạo đều cảm
nhận rất rơ rằng tâm hồn ḿnh hầu như
luôn luôn được nhuần gội một t́nh
tri âm thiêng liêng bàng bạc mà sâu sắc.
Mắt
phàm không thấy được h́nh bóng các đấng
Thiêng liêng qua ngọn linh cơ; chỉ có lời
thanh cao giọng bổng trầm truyền ra từ phương
tiện trung gian là đồng tử. Vậy cớ
sao nghe thấu tâm can, nghe ḷng rưng rưng xúc động.
Khi
những âm thanh ấy được tái hiện
bằng nét chữ trên trang giấy, người
đọc thánh giáo thánh ngôn tuy vẫn không nh́n
thấy bóng dáng Ơn Trên, mà cớ sao rất
dễ chạnh ḷng, để cho nét chữ bỗng
nhoè theo làn nước mắt.
Trước
đây 25, 26 năm, có kẻ thanh niên chưa biết
đạo Cao Đài là ǵ, tánh ham văn chương,
mê đọc sách. Thấy vậy, một người
bạn cùng trường bèn cho mượn quyển Đại
thừa chơn giáo. Đó là nhân duyên khiến
cho kẻ ấy mon men tiếp cận với đạo
Cao Đài.
Kẻ
ấy đọc say mê, được hơn 20 trang
th́ tới đoạn đức Cao Đài dạy:
“Nên
hội Tam giáo Công đồng, Thầy lập tờ
đoan thệ, đem Đạo mầu phổ hóa,
độ tất cả đám quần sanh.
“Nếu
các con chẳng chịu tu hành, không bỏ dữ làm
lành, Đạo không thành, Thầy nguyện không
trở về ngôi vị cũ.”
Tuy
chưa biết ông Cao Đài là ai, tự dưng
đọc tới đó th́ cả người
hắn nổi gai ốc, nước mắt tuôn trào
mà không làm sao giải thích được lư do. Và cũng
kể từ buổi đó, dù chưa nhập môn và
cũng chưa hề đặt chân tới bất
kỳ một thánh thất nào, trong thâm tâm hắn
đă tự coi ḿnh là môn đệ Cao Đài
rồi.
Những trải nghiệm tương tự như
thế chắc chắn không lạ ǵ với người
tín đồ Cao Đài. Đó cũng là một t́nh
cảm thiêng liêng, đến nhẹ nhàng tự nhiên,
âm thầm kín đáo, mà chứa chan và thấm thía
biết bao nhiêu!
Đạo
sử xây bàn
của Nữ đầu sư Hương Hiếu chép
thánh giáo ngày 23.10 Bính dần (27.11.1926). Bấy
giờ tiền bối Nguyễn Ngọc Thơ đang
lo làm thánh tượng Thiên nhăn. Đức Cao Đài
dạy: “Thơ! Con làm
thánh tượng vậy đặng, con phải tính
thế in cho nhiều một lần th́ giá rẻ chút
ít nghe.”
Không
rơ tiền bối Nguyễn Ngọc Thơ bộc
bạch điều chi mà đức Cao Đài
dạy tiếp rằng: “Đặng
con. Thầy biết một điều là trong hàng em
út các con đều là phần nghèo; một đồng
nó đỡ một đồng nghe con.”
Chuẩn
bị cất Ṭa thánh Tây Ninh, tại chùa G̣ Kén ngày
27.01 Đinh Măo (28.02.1927), đức Lư Giáo tông
vẽ họa đồ thiết kế một
kiến trúc hết sức to tát, cho thật tương
xứng với tầm cỡ của đạo Cao
Đài trong tương lai xa như thiên cơ đă
định. Chỉ riêng cái nền mà đă “cao
từ đất lên thềm 9 thước Lang Sa”.
Một đàn cơ sau đó đức Cao Đài
dạy tiền bối Nguyễn Ngọc Thơ
rằng: “Thầy
chẳng đành. Thảng như tốn kém nhiều,
các con coi theo họa đồ tính làm theo thước
mộc, nghe à.”
Dù
thế, ngày 07.02 Đinh Măo (08.3.1927), tại chùa G̣ Kén,
tiền bối Nguyễn Ngọc Thơ vẫn xin
đắp nền Ṭa thánh cao 9 mét, th́ Thầy
dạy: “Tốn kém
nhiều lắm con ơi!”
Sau
đó, đức Lư Giáo tông về dạy: “Cười...
Họa đồ của Lăo, Chí tôn chê và trách
rằng hao phí vô nền nặng lắm. Chí tôn
sửa lại...”
Đọc
sử đến đấy mà thương. Một
ông Trời làm Chúa tể cai quản khắp vũ
trụ càn khôn nhưng vẫn lo lắng nêu gương
tiết kiệm cho môn đệ. Tiết kiệm
đến từng đồng. Và hiểu ra, khi đức
Cao Đài dạy Thầy
là cơ thể của thương yêu th́ đó
không hề là lời nói trừu tượng, hoa
mỹ.
Người
hành đạo biết nhớ học gương
tiết kiệm của Thầy th́ có thể răn ḷng,
có thể tỉnh táo tránh xa mọi hà lạm
tiền bạc của nhơn sanh.
Mấy
năm gần đây, đọc báo chí Nhà nước,
thấy phanh phui những kẻ lạm quyền. Trong
lúc dân đen c̣n cùng cực, nghèo khổ, họ dám
vẽ vời những công tŕnh trời ơi đất
hỡi để xài công quỹ vài trăm tỷ
đồng dễ dàng như xài tiền lẻ, th́ càng
ngậm ngùi, càng thấm thía lời dạy tiết
kiệm của đức Chí tôn, và hiểu thêm
rằng tuy đời
đạo không phân hai, nhưng trong ứng xử
nhân t́nh th́ đạo
vẫn có chỗ khác hơn đời rất
nhiều.
Trở
lại với sự cảm thụ thánh giáo. Người
tín đồ có thể nhận biết rơ t́nh thương
yêu của các đấng Thiêng liêng mỗi khi ḷng rưng
rưng theo ḍng thánh giáo.
Tại
sao thế? Phải chăng v́ có một mối tri âm
tương thông nối kết, nên mọi phân cách
giữa hai cơi sắc tướng và vô vi đều
được nhiệm mầu hóa giải? Đức
Cao Triều Phát dạy (1967):
Hiển
u tuy có cách nhau xa,
T́nh
nghĩa thiêng liêng vẫn mặn mà.
Trách
nhiệm điểm tô nền Đại đạo,
Cũng
đồng con quư của Trời Cha.
Lời
dạy này cho hiểu thêm ư nghĩa hai chữ đạo
mạch. Huyết
mạch liên kết những người cùng một ḍng
tộc với nhau. Đạo mạch không những
liên kết tín đồ với tín đồ mà c̣n
liên kết người trần mắt thịt
với các đấng Thiêng liêng cơi thượng
trong cùng sứ mạng hoằng giáo kỳ Ba.
Do
đạo mạch mà tiên thánh vẫn xem kẻ phàm
trần là anh em. Đức Ngô Minh Chiêu dạy (1967):
“Thật ra trước
đấng Chí tôn, chúng ta tất cả là anh em.”
Do
đạo mạch mà đức Bạch Liên Tiên trưởng
(Phan Thanh) đă gọi kẻ phàm trần là cố
hữu (bạn cũ). Đức Tiên trưởng
dạy (1967): “Tuy là
kẻ dương gian, người tiên cảnh, t́nh
bạn thuở nào nay vẫn c̣n lưu luyến, và
trách nhiệm cũng ḥa đồng như nhau.”
Có
lần đức Mẹ hỏi làm sao có thể nghe
được âm thanh của cây
địch không lổ hay âm thanh của cây
đàn không dây. Câu hỏi giống như một
công án thiền. Tùy sự tu học bản thân,
mỗi người có một kiến giải khác
nhau. Riêng trộm hiểu, âm thanh của cây địch
không lổ hay của cây đàn không dây là âm
thanh của vô thanh. Không thể nghe bằng tai mà
phải nghe bằng tâm. Tiếng nói của Thầy,
Mẹ và các đấng Thiêng liêng qua ngọn linh cơ
cũng vậy. Chỉ có
nghe và hiểu bằng tâm th́ tri âm mới gặp tri
âm.
Đối
với Cơ quan Phổ thông Giáo lư, thánh giáo
của các Tiền bối khai Đạo là một ḍng
tri âm rất đặc biệt.
Thành
lập đầu năm 1965, Cơ quan là bộ máy
sau cùng của Đạo. Ngay mấy năm đầu
tiên, các Tiền bối khai Đạo thường
xuyên trở lại cơi trần ban trao lời châu
tiếng ngọc, và lúc nào cũng gieo vào ḷng người
sau những tâm t́nh rung cảm thiết tha, un đúc
cho đàn em hoài băo của cả một thế
hệ tiền nhân quá văng.
Giữa
các bậc Tiền khai và đàn em hậu tấn
hầu như không có một khoảng cách. Một
phần v́ thời gian hành đạo của các ngài
tính cho tới nay cũng chỉ trong ṿng ba phần tư
thế kỷ. Tâm tư và hành trạng các ngài lúc c̣n
tại thế có lẽ ở một mức độ
nào đó cũng không quá đỗi khác biệt so
với tâm tư và hành trạng lớp đàn em
thời đại bây giờ.
Những
khi trở lại trần gian qua ngọn linh cơ, các
Tiền khai dành rất nhiều thời gian kết liên
t́nh đạo mạch, đỡ nâng, rèn đúc tâm
chí can trường thiết thạch cho lớp
lớp đàn em tiếp nối. Mỗi vị
một cách, mỗi vị một nét tâm t́nh.
Hoặc nhắc sứ mạng hoằng giáo độ
nhân, nhắc căn kiếp khi xưa, nhắc lời
đại nguyện, nhắc đạo nghiệp sinh
thời. Hoặc bày tỏ nỗi ưu tư trước
sứ mạng c̣n dài mà biết cậy trông ai gánh vác...
Tiếp
pháp Trương Văn Tràng quy thiên tháng 02.1965,
thọ 73 tuổi. Sau đó trở về hội
ngộ (1966), ngài tỏ ḷng thông cảm với đàn
em về nỗi buồn ly biệt:
Kẻ
ở người đi gẫm cũng buồn,
Xót
xa mỗi phận mỗi vai tuồng...
Đức
Đoàn Văn Bản bày tỏ (1967):
Nh́n
huynh đệ ḷng thương và đau như
cắt,
Ngó
anh em rồi lệ mắt bỗng rưng rưng.
Muốn
viết luôn, tay lại ngập ngừng...
Ngài
Phan Thanh rời quê hương Việt Nam sang Anh
truyền đạo (1951); rồi qua Pháp phổ hóa
đạo Thầy (1952), nhưng định mệnh
an bài, ngài quy thiên ở Paris, dở dang chí lớn. Mười
lăm năm sau trở lại trần gian, đức
Phan Thanh tỏ rơ nỗi niềm:
Non
nước xa vời cảnh Á Âu.
V́
thương dân đạo mới đương
đầu.
Trùng
dương bao nệ ḍng thương hải,
Muôn
dặm sá ǵ cuộc bể dâu.
Chí
dốc hoằng dương cơ chánh giáo,
Ḷng
mong quảng bá pháp siêu mầu.
Hay
đâu định mệnh bao nhiêu đó,
Kẻ
ở người đi cũng tủi sầu.
Tiên
thánh là các đấng không c̣n bị thất t́nh
lục dục chi phối, tác động. Nên sẽ
không khỏi có người thắc mắc khi
thấy trong thánh giáo Cao Đài vẫn có chỗ dành
cho những giọt lệ, cho nhớ thương,
buồn tiếc, xót xa...
Thực
ra, xét cho kỹ, những t́nh cảm ấy rất
thanh cao, thánh thiện, v́ đó là t́nh cảm
gắn liền với sứ mạng kỳ Ba cứu
thế.
Các
Tiền khai Đại đạo, sinh thời mỗi
vị một sở trường, mỗi người
một địa phương hoằng giáo, tâm tư
các vị có thể cũng không tránh khỏi một
nỗi niềm riêng. Nhưng sau khi rũ bỏ xác phàm,
từ cơi thượng trở về phàm giới, các
đấng đều chung một tiếng nói, đều
san sẻ chung một tấm ḷng. Trong đó, có
nỗi luyến tiếc phải trả bỏ xác phàm
quá sớm. Sớm không phải v́ so với tuổi
tác, mà sớm v́ đạo nghiệp dở dang.
Quy
thiên (1941) ở tuổi 66, khi trở về đức
Đoàn Văn Bản bày tỏ (1967):
Buồn
là buồn chưa làm nên đạo nghiệp,
Thương
là thương số kiếp chẳng cho thêm...
Quy
thiên (1951) năm 71 tuổi, buổi trùng lai đức
Nguyễn Ngọc Tương thổ lộ (1967):
Thương
v́ nhục thể sớm tiêu tan,
Đạo
nghiệp đành cam chịu dở dang...
Quy
thiên (1934) ở tuổi 59, sau tám năm liên tục hành
đạo, đến lúc tái ngộ đàn em đức
Thượng Trung Nhựt không giấu nỗi
ngậm ngùi (1970):
Gánh
đạo vừa mang được nửa
đường,
Éo
le lại gặp phải vô thường.
Bao
nhiêu chí cả chưa thành tựu,
Tiên
cảnh hồng trần măi vấn vương.
Ngài
Lê Kim Tỵ b́nh sinh mải bôn ba, dăi dầu với
Đạo, từng chịu cảnh tù đày nơi
rừng sâu nước độc. Quy thiên (1948)
ở tuổi 57, ngài vẫn không thể vui hưởng
cảnh nhàn. Đầu xuân Bính ngọ (1966), mượn
ngọn linh cơ, đức Lê Kim Tỵ tâm t́nh:
Nay
về chốn tiên ṭa cảnh cũ,
Tệ
huynh nào vui thú chi đâu.
Nhiệm
vụ xưa mấy lúc dăi dầu,
Chưa
thành đạt ḷng này c̣n luyến tiếc.
Đạo
nghiệp tiền nhân dở dang không phải v́ người
xưa thiếu kế hoạch hay chưa dốc
sức dốc tài. Trái lại, đó là một
lẽ huyền vi của cơ Trời máy Tạo.
Quy
thiên (1959) ở tuổi 70, mười năm sau có
lần trở về (1968) đức Phạm Công
Tắc đă phân tỏ cho đàn em hiểu phần
nào nỗi éo le đó:
Những
việc từ xưa đă sắp bày,
Nhưng
chưa tiện nói để ai hay.
Trớ
trêu con Tạo chia đôi ngả,
Đạo
nghiệp linh đinh đến nỗi này.
Ngài
dạy tiếp: “... bao
nhiêu sứ mạng đă sắp bày, bao nhiêu kế
hoạch đă định sẵn, chỉ chờ
thời gian tuần tự tiến hành. Nhưng than ôi!
Ḷng người thời vậy mà thời cơ chưa
được vậy! (...) Cơ đạo lúc
bấy giờ luôn luôn ứng phó xoay trở với
bao nhiêu áp lực từ bên ngoài đưa đến.
Dầu tài cán đến bực nào cũng không làm
sao tiến hành cho kịp lúc.”
Với
ḍng thánh giáo chỉ bày triết lư cao siêu, con
đường tu tâm dưỡng tánh, phương
pháp thiền định giải thoát, v.v... đạo
Cao Đài có điểm chung đồng với các tôn
giáo khác. Nhưng với ḍng thánh giáo chở chuyên tâm
sự người xưa như dẫn trên, hầu
như không một tôn giáo nào khác có được
phong cách truyền đạo độc đáo, hy
hữu thế này.
Thử
hỏi, tại sao các Tiền bối lại nhiều
phen nhọc công trở lại cơi trần để
giăi bày nỗi ḷng? Câu trả lời có thể t́m
thấy qua lời dạy của đức Thượng Trung Nhựt và đức Ngọc
Lịch Nguyệt (1967):
“Lời
thành thật Tiên huynh nói đây để các em
hiểu cho các anh, dầu được về nơi
cơi thượng, nhưng cũng vẫn hành đạo
trong sứ mạng của ḿnh. Tiên huynh mong rằng
lời nói hôm nay các em hăy xem là tất cả
tấm ḷng ưu ái của các anh đối với
các em nơi cơi thượng.”
Là
chân tu yêu nước,
cụ Cao Triều v́ tuổi già, bệnh nặng, 2
giờ chiều ngày 09.9.1956 đă quy thiên tại Hà
Nội. Xác phàm cụ gởi lại miền Bắc,
lúc đầu ngay tại Hà Nội, rồi dời ra
tận nghĩa trang Yên Kỳ, xă Bắc Đạo
(tỉnh Hà Tây). Từ đó, chơn linh của
đức Cao Triều giong ruổi khắp nơi, góp
sức vô vi vào sứ mạng Cao Đài. Đức
Cao Triều dạy (1966):
Thân
xác gởi dặm trường quan ải,
Hồn
linh c̣n đi lại các nơi.
Để
lo xây dựng đạo Trời,
Chờ
cơ hội đến chờ thời phục hưng.
Đem
giáo lư phong thuần mỹ tục,
Cho
muôn dân hưởng phút thanh nhàn.
Cho
người đừng tưởng trái ngang,
Đời
đời đạo đạo mà toan nghĩ
lầm.
Bằng
cách thổ lộ nỗi niềm như vậy, các
Tiền bối khai Đạo đă gieo ư thức hành
đạo cho đàn em tiếp nối. Lớp người
sau mỗi năm nh́n lại đời ḿnh, tuổi
tác chồng chất, sức khoẻ hao ṃn, càng
gẫm suy lời các Tiền bối ắt càng lo
sợ rằng bản thân ḿnh vẫn chưa biết
tận dụng hữu hiệu những ngày trần
thế để hành đạo cho hiệu quả
rốt ráo.
Các
Tiền bối ôn lại chuyện cũ, bộc
bạch can tràng đều nhằm định hướng
cho đàn em trên đường hoằng giáo, trong
đó có cả phần giúp đàn em rút tỉa kinh
nghiệm của những người đi trước.
Đức Cao Triều Trực dạy (1970):
“Trong
t́nh bạn đạo, gặp lại nhau, không
thể không ôn lại những ǵ diễn tiến
từ dĩ văng đến hiện tại, những
nỗi buồn vui bại thành trên bước
đường hành đạo, để giúp đỡ
cho nhau những kinh nghiệm sống. Âu đó cũng
là bổn phận của người đi trước.
Có chỉ bảo cho nhau để lớp người
sau biết những ǵ cần phải tránh, để
làm vốn liếng thực hiện đại chí
của bực hướng đạo, làm sao cho đúng
với tôn chỉ khai đạo mà đức Chí tôn
đă định, để hoàn thành sứ mạng
thế Thiên hành hóa và cũng để khỏi ân
hận nuối tiếc như lớp người
đă đi qua trong quá khứ.”
Nhớ
lại những năm 20 của thế kỷ 20.
Việc các Tiền khai tuân theo lời dạy của
đức Chí tôn qua huyền cơ diệu bút là
một sự kiện rất hy hữu. Như ngài Ngô
Văn Chiêu, đang c̣n trong chốn quan trường,
đang c̣n phải ràng buộc với các quan hệ
giao tế xă hội của giới thượng lưu,
th́ bất ngờ mùng 1 Tết Tân Dậu (1921), đức
Cao Đài Tiên ông giáng cơ dạy: “Chiêu,
tam niên trường trai.”
Ngài
Ngô vâng lời, chẳng phải chỉ ba năm mà là
ăn chay luôn từ buổi đó cho đến khi
quy thiên (1932). Điều ǵ đă khiến ngài
trọn tuân theo lệnh dạy? Nếu giải thích
bằng đức tin th́ e rằng cũng chưa
đủ.
Các
ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài
Sang ngày 30 tháng 10 Ất Sửu (15.12.1925) tuân lịnh
đức Cao Đài, ăn mặc áo dài khăn
đóng chỉnh tề, cùng ra hết ngoài sân mà
quỳ giữa chốn đông người qua
lại, để vọng thiên cầu đạo.
Đă thế, ông Bồng Dinh c̣n đứng sán
một bên, ngâm nga thơ phú... Một việc làm vô
cùng khác thường trước mắt thế nhân,
tránh sao không lôi cuốn nhiều kẻ hiếu
kỳ! Năm ấy ngài Tắc, ngài Cư đang
tuổi 36, 38; c̣n ngài Sang th́ chỉ mới là
một thanh niên 25 tuổi.
Người
ta ai mà chẳng có ḷng hổ ngươi, mắc
cở. Vậy th́ ba con người trẻ tuổi
đêm hôm ấy chắc chắn cũng phải
hết sức nhẫn ḷng để thi hành trọn
vẹn lịnh dạy của Thầy.
Nhiều
năm về sau, ngày rằm tháng 8 Kỷ Sửu, chính
Hộ pháp Phạm Công Tắc hồi tưởng
lại đêm hôm ấy, đă chân thành thổ
lộ: “...
không c̣n biết vị kỷ nhục nhă chi hết,
giữa khoảng đường nơi châu thành Sài
G̣n thiên hạ tấp nập, mà đức Chí tôn
buộc phải quỳ ngoài đường dựa bên
lề ấy, quỳ đặng cầu nguyện xin
đạo cho chúng sanh. Tội nghiệp thay, Ngài
thử thách cho đến nước...”
Việc
làm của ba vị Cao, Phạm năm xưa chắc
chắn cũng không thể chỉ lấy đức
tin mà giải thích.
Ngài
Trần Đạo Quang và các vị Thái lăo sư khác
của đạo Minh Sư đang ở vào vị trí
trên là Tổ dưới là các ngài; thân phận là
lănh tụ tinh thần của hàng ngàn đệ
tử, làm chủ nhiều cảnh chùa, vinh dự to
lớn đến thế, vậy mà chỉ một
ngọn cơ, chỉ một lời vô h́nh chỉ
dạy, các ngài lănh đạo Minh Sư lập
tức bỏ hết quyền lực, ngôi vị tôn
quư để trở thành tín đồ Cao Đài,
chịu ngang hàng với những người có khi
tuổi đời c̣n kém hơn các ngài, công phu tu
luyện và tri thức kinh điển có lẽ cũng
c̣n non hơn các ngài ít nhiều.
Việc
làm của các ngài Thái lăo sư ngày trước cũng
không thể chỉ lấy đức tin mà giải
thích.
Nếu
đức tin không đủ giải thích, th́ điều
ǵ đă khiến cho những người có địa
vị trong xă hội, có chức quyền trong tôn giáo
dễ dàng gạt bỏ hết ḷng tự tôn vị
kỷ và sỉ diện cá nhân để tuân lời
dạy vô vi qua ngọn linh cơ? Phải chăng
đó là tiếng gọi
thiêng liêng từ trong tiền kiếp?
Có
lẽ là như thế. Hai vị Tiền khai là Thượng
Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt phân giải
(1967):
“Các
em ôi! Chúng Tiên huynh đă trải qua nhiều
tiền kiếp trong hai thời kỳ lập đạo,
đem đạo độ đời. Đến Tam
kỳ ân xá, chúng Tiên huynh cũng xuống hồng
trần, phải mang xác phàm hóa độ người
đời nơi đất Việt Nam. Chúng Tiên
huynh đă trải qua biết bao nhiêu lúc thăng
trầm bĩ thới, trở ngại khó khăn, vào
khám ra tù, lưu vong đất khách, hy sinh để
tiếp nhận sứ mạng lập nền Đại
đạo Tam kỳ Phổ độ từ năm Bính
dần cho đến ngày cổi bỏ xác phàm, rũ
sạch những oan khiên nghiệp chướng.”
Các
Tiền khai hé lộ cho biết các ngài chính là nguyên
nhân tá thế để làm sứ mạng kỳ Ba.
Các ngài là lớp tiên phong được đức
Chí tôn phân công cho xuống trước để
mở đường vạch lối sẵn cho đoàn
người phía sau tiếp bước. Khi tiết
lộ nguyên căn của ḿnh, các Tiền bối cũng
nhân đó mà nhắc đàn em hậu tấn nhớ
lại nguyên căn của mỗi người.
Năm
1966, đức Thiện pháp Nguyễn Bửu Tài cho
biết đàn em các ngài sở dĩ có duyên với
đạo Cao Đài chính v́ xưa kia đă có
một lời nguyện với đức Chí tôn:
Ngôi
xưa em có nhớ cùng chăng,
Trước
điện Linh Tiêu đă nguyện rằng;
Đi
xuống trần gian y thánh chỉ,
Cứu
đời dụng đạo để làm căn.
Từ
Thượng đế ra đi, nguyên căn lớp
lớp bước vào trần gian. Lẽ ra cũng
sẽ có lớp lớp nguyên nhân quay về với
Thượng đế, như lời Thầy
dạy:
Một
sứ mạng Thầy dành hai ngơ,
Một
ra đi, một trở lại Thầy...
Nhưng
than ôi! Đi nhiều mà về ít. Bởi v́ trần
gian là một trận đồ, là một mê cung
thừa sức cầm chân nhiều nguyên nhân hết
kiếp này sang kiếp khác.
Một
tiền bối Cơ quan Phổ thông Giáo lư là đức
Bảo pháp Chơn quân Huỳnh Chơn. Ngài
nguyên là bồng lai tiên tử, cũng nằm trong
số phận éo le đó. Tới chừng trở
về được cơi thiên rồi, trong một
lần thăm lại đàn em, nhớ lại
những kiếp người đă qua mà ngài không
khỏi ngậm ngùi than thở:
Cho
hay cảnh giới hữu t́nh,
Men
đời chưa thấm mà ḿnh đă say.
V́
thế, bằng kinh nghiệm của người
đi trước, để giúp đàn em tỉnh
ngộ trước men say cơi tục, đức
Thiện pháp Nguyễn Bửu Tài vừa nhắc cho
nhớ ngôi xưa vị cũ vừa cảnh
tỉnh lớp người sau đừng phí
uổng kiếp sống tại trần để
khỏi lỡ làng đại nguyện:
Căn
bản nay c̣n có nhớ không?
Hay
là v́ bận chuyện bao đồng?
Thê
nhi, sự nghiệp, cùng chung đỉnh,
Sớm
tối nha môn măi chạy rong.
Chạy
rong càng lúc lại càng xa,
Quên
lẩn bên lưng một kiếp già.
Sức
mỏi, lực cùng c̣n lẩn quẩn,
Hơi
tàn rồi phải đọa trầm kha.
Mấy
mươi năm trôi qua, thánh giáo của các
Tiền bối ban trao có rất nhiều, có thể
kết thành tập dày dặn, với biết bao thơ
văn chứa chan, phong phú. Dù dạy vào thời
điểm nào, dù giáng cơ ở địa phương
nào, dù giảng về một chủ đề nào,
th́ tất cả cùng có chung một xuyên suốt là nỗi
ưu tư nặng ḷng về tương lai nền
Đạo.
Các
Tiền bối là người đă khai hoang, đă
ươm trồng lên những thân cây cho mảnh vườn
Đại đạo. Người làm vườn tuy
đă trao lại cho người sau tiếp tục
ươm trồng, vun tưới nhưng không
phải v́ thế mà coi như đă xong phần trách
nhiệm của tiền nhân.
Nguyễn
Công Trứ ngày xưa c̣n có thể mơ ước
kẻ sĩ sẽ có ngày “nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo”. Nhưng
các Tiền bối khai Đạo dù đă trở
về tiên cảnh vẫn chưa thể vỗ tay reo
thanh thản.
Trước
thực trạng chông chênh của nỗi đạo
t́nh đời, đức
Thượng Trung Nhựt và đức Ngọc
Lịch Nguyệt cùng chung lời tha thiết (1967):
“Các
em ôi! Các sứ mạng đến trần gian ngày
nay phải chịu trọng trách ở những danh
từ chi phái, tịnh thất, nào phải đột
nhiên mà có đâu. Nhưng có để cùng hút
nhựa sống của thân cây hầu đơm bông
trổ trái; mà cây có đầy nhựa sống
để nuôi cành lá là do sự chăm sóc, vun tưới,
giữ ǵn của kẻ làm vườn. Hỡi các
em! Ai chăm sóc? ai ǵn giữ? ai vun quén? mà chúng Tiên
huynh cùng các em lắm lúc cùng mang một trạng
huống đau ḷng.”
Những
lời hỏi ai
thiết tha ấy cũng là lời đức Cao
Triều Phát từng hỏi:
Tuy
Tệ huynh nay đà khuất bóng,
Nhưng
ḷng c̣n xúc động t́nh thâm.
Thế
gian bao ngơ thăng trầm,
Cái
cơ nghiệp cũ ai cầm vững cho?
Một
lần khác, Tiền bối Cao Triều cũng
hỏi:
Ngh́n
xưa đó, tuổi tên ai đó?
Hiện
giờ đây đă có ai đây?
Đứng
ra xây dựng đạo Thầy,
Bằng
ḷng hy hiến, bằng dây ḥa đồng?
Sinh
thời là Bảo đạo chưởng quản
Hiệp thiên đài Ṭa thánh Hậu Giang, ngài Cao
Triều Phát quy thiên (1956), rồi đúng mười
năm sau (1966), Tiền bối trở về, tỏ
lời tâm sự:
Tệ
huynh hổ phận ḿnh Chưởng quản,
Công
chưa thành chưa đáng công phu.
C̣n
đây sứ mạng vận trù,
Tương
lai hỏi có mịt mù hay chăng?
Ưu
tư v́ tương lai nền Đạo, gởi
gấm niềm tin vào vào đàn em tiếp nối, các
Tiền bối khai Đạo luôn luôn dành những
lời yêu thương, động viên, nâng đỡ
tha thiết, chân t́nh. Đức Cao Triều Tiền
bối dạy (1971):
“Tiên
huynh đă đi qua, chiếc bóng đă nằm
xuống. Nhưng tinh thần của Tiên huynh măi măi
theo gót chân của các em mà đi vào ánh sáng đạo,
vào bóng tối của trần gian.”
Là
người yêu nước, nói tới sứ
mạng vô cùng vẻ vang mà Thượng đế
ban trao cho dân tộc được chọn, những
lời dặn ḍ tâm huyết của đức Cao
Triều Tiền bối bao giờ cũng mang mặc
t́nh dân tộc nghĩa nước non, gắn
liền với mối đạo đă sinh ra từ
đất nước Việt Nam (1971):
“Các
em là những con người Việt, những thoi vàng
được trui luyện trong ḷ lửa của
chiến chinh, của ly loạn. Giá trị đang
chờ đợi các em. Tiên huynh chỉ là một
vang bóng của các em trong quá khứ, một hùng khí
của các em trong tương lai. Hăy gắng lên các
em! Cơ hội cứu thế kỳ Ba bỏ qua
chắc không bao giờ gặp lại.”
·
Trở
lại với chuyện Bá Nha, Tử Kỳ. Chia tay
nhau, một năm sau Bá Nha mới có dịp trở
về bến Hàm Dương thăm bạn. Than ôi,
Tử Kỳ đă ra người thiên cổ! Bá Nha
đau đớn t́m đến tận mộ vĩnh
biệt Tử Kỳ, rồi đập vỡ cây
đàn, bởi v́ đă mất bạn tri âm th́ c̣n
biết đàn cho ai nghe nữa!
Ở
Việt Nam, đầu thế kỷ 20, Nguyễn
Khuyến cũng vậy. Bạn tri âm qua đời,
ông không muốn làm thơ nữa, thở than trong bài
Khóc bạn:
Câu
thơ nghĩ đắn đo chẳng viết,
Viết
đưa ai, ai biết mà đưa?
Lấy t́nh đời tri âm mà xét t́nh đạo tri
âm. Vắng bóng tri âm, người trần gian c̣n
tiếc lời tiếc lẽ đến mức như
thế, hà huống là thánh tiên, trời phật. Cho
nên, càng ngẫm nghĩ lại càng giật ḿnh và càng
vô cùng cảm kích. Bởi v́ một khi Ơn Trên,
một khi các vị Tiền bối khai Đạo c̣n
tiếp tục ban trao lời châu tiếng ngọc, c̣n
tin yêu gởi gấm can tràng, khuyến nhủ
thiệt hơn, ấy là các đấng c̣n kỳ
vọng khách trần là kẻ tri âm, là người
biết lắng ḷng để nghe rồi hiểu và
hành theo thánh giáo.
Tri
âm... Đó chính là ḷng kỳ vọng của người
xưa, của đức Cao Triều Tiền bối:
Nay
Tệ huynh được về hội ngộ,
Gởi
đôi lời chứng tỏ tri âm.
Hậu
Giang một mối cơ cầm,
Xin
đem gởi gấm đạo tâm giữ ǵn.
Cơ
quan đạo trung minh chánh giáo,
Nối
tiếp người gây tạo tương lai.
Cùng
trong con cái Cao Đài,
Kẻ
u người hiển thi tài làm nên.
Lắng nghe tiếng nói tri âm chứa chan hoài băo
ấy, xin nguyện cầu cho càng ngày càng có thêm
thật nhiều người con Áo trắng xứng
đáng là tri âm đích thực của các đấng
Thiêng liêng Tam kỳ Phổ độ.
LÊ
ANH DŨNG
(Phú
Nhuận, 08.4.2001)
|