THƯỢNG-ĐẾ
VÀ T̀NH-THƯƠNG
NGỌC-HUỆ-CHƠN
Mùa
Xuân là mùa bắt
đầu lập lại công cuộc “Xuân trưởng
Thu tàn” của một giai đoạn đời người
mà ta cần b́nh-tâm suy nghĩ lại cái ǵ nên
bỏ và cái ǵ nên đem theo cho cuộc hành tŕnh
để vững bước đi trên đoạn
đường đời sắp đến.
Tất
cả những phương-pháp làm cho chúng ta có
đủ năng-lực và tánh-chất để
bảo vệ quyền hạng và địa vị
con người đều
đặt trọn vào ư-nghĩa của mùa Xuân, v́
đó là biểu-tượng của một sự
ấm-áp sau một thời gian tuyết băng giá
lạnh.
C̣n
nói về phần tâm-linh, mùa Xuân là biểu-hiện
của cái t́nh yêu thưởng phạt ban cho từ
nơi Thầy Mẹ để sự sống
hằng-hữu với vũ-trụ và không-gian mà dư
âm c̣n vọng lại qua đoạn Thánh-giáo sau
đây: “Nầy các con! Không cứ một mùa Xuân
cách Hạ, Thu, Đông hoặc trăm vạn mùa Xuân
phát sinh vào thời gian ngắn-ngủi, mà mùa Xuân nào
các con cũng trau luyện tâm ḿnh được tươi-nhuận
ấm-áp dịu-hiền, không sân-hận, không si-mê,
không tham-vọng, th́ các con tự khắc gần-gũi
với Thầy rồi. Nhưng Thầy là ǵ, hỡi
các con?
Thầy
dư hiểu mỗi con đều định-nghĩa
được Thầy và biết rơ đặc-tính
của Thầy. Tuy nhiên, lắm lúc sự hiểu
biết bằng trí-thức ấy đă phai mờ v́
phàm-tâm vọng-ư của các con rồi hóa ra
chẳng hiểu ǵ hết. Nếu các con thật
hiểu Thầy, thật hiểu với Thầy như
hơi thở của các con th́ không bao giờ quên,
chừng ấy mới mong bắt chước theo
Thầy mà hành động”.
Lâu
nay các con đă lắm lời tán-tụng Thầy
bằng bài thương yêu “Thầy là Cha của
sự thương yêu”. Bởi thương yêu
mới dựng nên Càn Khôn Thế Giới, nhưng có
mấy con đi đúng lời ấy đâu?
Nêu
ra những sự-kiện về Thầy để các
con thâm-nhập vào ḷng, thực hành rốt-ráo,
chớ không phải để các con lấy đó làm
tiêu-ngữ che mặt thế-nhân.
Thật
sự, lẽ cùng-cực của Đạo là
sức tuyệt-đối. Hễ tuyệt-đối
th́ không nói đến điều thương ghét.
Song v́ các con sống với thế gian là trường
đối-đăi th́ sự Từ-Bi, Bác-Ái
được nêu lên là việc thường để
răn ḷng mỗi đứa mà thôi. Như vậy,
được sống trong mùa Xuân miên-viễn, không
hạn định, không hủy bỏ theo
thời-gian. Ấy là Xuân Đạo-Đức, mà nên
nhớ, Xuân Đạo-Đức th́ vĩnh-viễn
nghe con!”
Đại-khái
Xuân đời, cảnh vật có chi hỡi các con!
Cành
hoa chớm nở tươi xinh, các con nâng-niu cành lá,
vun tưới gốc cây, ngữi mùi thơm trong
nhụy. Sao các con không vun-tưới cội lành
đạo cả, nâng-niu sang sửa Chơn-Tâm cho
thật tươi nhuận sáng-suốt, để
rồi ngữi lấy đạo-vị
nhiệm-mầu tự ḷng con khai-phát?
(STTG.
85, tr.5)
Xuyên
qua Thánh-giáo trên, chúng ta cần nên đào sâu hơn
nữa mới t́m thấy cái tinh-hoa của Đạo-giáo
nằm trong mọi sự việc đang phô-diễn
hằng ngày mà v́ chúng ta măi chạy theo cuộc
sống văn-minh vật-chất mà ít khi chịu khó
b́nh-tâm suy-tư để t́m ra cái vẻ mặt siêu
đẹp đẽ và phổ-quát của siêu-nhiên.
Điều nầy được nhận chứng
qua sự khác biệt giữa các tôn-giáo về
quan-niệm vũ-trụ. Ví như:
Tại
sao người Tây-Phương nói tuần lễ có
bảy ngày mà ngày thứ bảy trong tuần lại
là ngày Chúa-Nhựt? Cũng như người Đông-Phương,
lại chọn ngày mùng 9 tháng giêng Âm-lịch là ngày
vía Trời?
Cho
nên, dù cho bậc bác-học cao-thâm, có thể bay lên
cung trăng hay xuống sâu trong ḷng đất,
mọi sự khám phá văn-minh cũng chỉ là
một sự ṃ-mẫm
đối với nhận-thức của con người
mà thôi và qua nhăn-giới con người có hạn th́
làm sao có đủ khả-năng để lănh-hội
phần chơn-lư trừu-tượng mà các v́ giáo-chủ
nêu ra? Vậy ai là người đang đứng trên
mặt đất nầy mà dám tự-hào rằng ḿnh
chỉ sống với sự hiểu biết của
cá-nhân ḿnh mà không cần phải có những người
đă đi trước?
Thánh-ngôn
Thánh-giáo đă dạy rất nhiều rằng :
«Thầy là Cha của sự thương yêu»
Vậy
thế nào là Thương-Yêu?
Thương-yêu
là nhu-cầu trọng-yếu của con người mà
không phải là bổn phận. Ví như: Cha
mẹ có bổn phận thương yêu con. Loài người
có bổn-phận thương yêu nhau hoặc con người
có bổn-phận thương-yêu đấng
Tạo-Hoá. Thương-yêu là cái ǵ tự nhiên, không
thể bắt buộc, không thể nói là
bổn-phận. Tôi không thể thương-yêu
một người mà tôi không muốn thương yêu.
Tuy
nhiên, có lúc chúng ta không thấy được chính
những nhu yếu của ta th́ có thể, có lúc chúng
ta không thấy được rằng ta vốn
sẵn có t́nh thương yêu với đối tượng
mà hiện nay ta không, hoặc chưa cần thấy
yêu thương. V́ lư do đó nên ta có thể
đánh thức t́nh yêu thương sẵn có
ở trong ta đối với một đối-tượng
nào đó bằng cách khai mở và hướng
dẫn nội tâm ta. Sự việc nầy có thể
thành-công khi nhu-yếu kia là cái ǵ thật có
tiềm-tàng trong ta. Ví như :
1/-
Có một người mẹ ghẻ kia chưa bao
giờ thật sự yêu con chồng, người
ấy chỉ là h́nh ảnh của ác mộng dài, th́
dù ta có khuyên bảo ǵ đi nữa, người con
đó cũng không thể nào thương yêu bà kia
một cách chơn
thật với t́nh thương mẹ.
2/-
Trên thực tế, có những đứa con yêu bà
mẹ nuôi một cách
thắm-thiết, trong khi không muốn nh́n nhận bà
mẹ đẻ của ḿnh (trường hợp
của nhà thi sĩ Tản-Đà). Như thế là v́
trong cuộc đời ấu thơ của chúng,
trong những lúc đau khổ của chúng, bà mẹ
nuôi đă đến như một ḍng suối
ngọt, như một bóng mát. Do đó mà mọi
khổ đau, ngọt bùi, ân nghĩa và kỷ
niệm là những miếng đất, nơi đó
hột giống thương yêu được gieo
trồng và mọc lên. Như vậy, có phải t́nh
yêu thương rơ rệt là một nhu-yếu không?
Sở dĩ lắm lúc con người tỏ ra
bất nghĩa, vô t́nh là tại sao? Là v́
những màn vô-minh nào đó, tức là
bản-ngă hay một tâm-trạng u-sầu, lo-lắng
bực-dọc hay đam-mê nào đó đến che
lấp mất đi thôi. Một khi những tâm-trạng
đó lắng xuống, những tấm màn kia
lột đi th́ nhu-yếu thương-yêu lại
được phát hiện rơ-ràng trở lại..
Đó
là những nhu-yếu để bảo-vệ cho t́nh
thương và bồi-đấp cho sự sống. Càng
khám phá, càng hiểu biết, con người càng thoát
khỏi cái vỏ bản-ngă chật hẹp nghèo-nàn
để vươn lên thế nhập với
những hiện-tượng khác trong vũ-trụ. Mà
vũ-trụ là ǵ? Là nguyên-tắc thành vạn
loại, có nghĩa là vạn-loại (Địa) và
vũ-trụ (Thiên) là MỘT và khi nói vũ-trụ
là nói đến Thượng-Đế.
Nói cách khác: không thể tách rời sự
sống ra khỏi vũ-trụ hay Thượng-Đế
và ngược lại vũ-trụ cũng không
thể tách rời ra khỏi sự sống, mà trong
Đạo Cao-Đài, Thượng-Đế hay
Thầy đă bảo:
"Thầy
là các con – các con là Thầy"
Giữa
sự sống và vũ-trụ, giữa nguyên-nhân-sinh
và vật thụ-bẩm cái khí tinh-anh của vũ-trụ,
dường như có một sợi dây vô h́nh ràng
buộc với nhau khiến cho ta khó phân ly sự
sống ra ngoài vũ-trụ mà c̣n tồn tại.
Sự sống và vũ-trụ là một Đại-Thể
không thể chia cắt. Chúng tác-thành cho nhau theo
luật hổ-tương. Như vậy, nói cách
đơn giản hơn: Trời là sự
sống, mà sự sống là Thiên-Nhân hay là ḷng thương
yêu của Trời, là năng-lực sáng tạo, v́
sáng tạo nên luôn luôn được đổi
mới, do đó mới có câu: « Nhật tân,
nhật nhật tân, hựu nhật tân ».
Ngôn
ngữ Pháp có chữ COMPRENDRE gồm có COM là cùng
với ḿnh và PRENDRE là nắm lấy. Và COMPRENDRE
là: «Khi hiểu biết một vật ǵ là
ḿnh đồng nhứt cùng vật đó». Thương
yêu cũng vậy: Càng thương yêu, con người
càng thoát ra khỏi cái vỏ bản-ngă chật
hẹp và nghèo-nàn của ḿnh để vươn lên
khám phá và thể-nhập với những hiện tượng
khác.
Nếu
khám phá và hiểu biết là nguồn hạnh-phúc th́
thương yêu cũng là nguồn hạnh-phúc.
Tất cả những cái đó là những mục
tiêu để vươn tới đồng-nhứt
với đối-tượng.
Thật
ra, không có một ngôn-ngữ nào, một lời nói
nào có thể diễn tă được trọn
vẹn t́nh yêu của Thượng-Đế. T́nh yêu
của Thượng-Đế tuôn tràn
bất-tuyệt trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, trong muôn loài
vạn vật.
T́nh
yêu của Thượng-Đế cũng
thể-hiện trong nghịch cảnh, luân-lưu trong
từng hơi thở của vũ-trụ, đang
rung-động trong cái sinh-tồn của
trần-gian. Qua bao thăng-trầm với những bài
học thấp-thỏi của trần đời, giúp
con người phát-triển phàm-ngă, qua bao đổi
thay nếm đủ mùi vị cay, đắng,
ngọt, bùi trong chu-tŕnh tiến-hóa của phàm phu.
Đến khi đă thấm-thía mùi vị của
đau khổ, thấm-thía cái hư-ảo của
kiếp con người, thấm-thía hạnh-phúc
giả-tạm của trần-gian, từ đây nhân-loại
mới bước sang giai đoạn mới, bước
vào cuộc hành tŕnh đi t́m về giải-thoát.
Trong
hành-tŕnh nầy, ta sẽ gặp sự tranh-chấp
dằn-co giữa tiếng gọi của Phàm-Ngă và
Chơn-Ngă, như vậy ta sẽ có dịp học bài
học về ư-chí, về nghị-lực, về ḷng
can-đảm.
Tóm
lại, đây là bài học BI, TRÍ, DŨNG, nghĩa
là :
Học
BI, tức là học yêu-thương,
Học
TRÍ, tức là học trau-dồi sự sáng-suốt
phân biệt lẽ Thiện Ác,
Học
DŨNG, tức là học rèn luyện ư-chí.
Muốn
giải thoát ta phải thấm-nhuần ba hạnh
đó, v́ có sự tranh-chấp giữa ác-trược
và sự thiện-lành sẽ giúp ta có cơ-hội
phát triển.
Tại
sao sự tranh-chấp giữa ác-trược và
sự thiện-lành lại giúp ta tiến-bộ?
Tại
sao sự xung-đột giữa Phàm-Ngă và Chơn-Ngă
lại giúp ta tiến-hóa?
Thế
nào là Chơn-Ngă và thế nào là Phàm-Ngă?
Tiếng
nói của Phàm-Ngă là tiếng nói của Lục-Căn,
Lục-Trần, tiếng nói của ác-trược,
tiếng nói thúc-giục ta tranh-chấp hận-thù,
ganh-tị, tham-lam.
Tiếng
nói của Chơn-Ngă là tiếng nói quay về
sự thiện-lành,
sống theo lương-tâm, biết yêu- thương,
tha-thứ, hy-sinh, tinh-tấn để vươn lên
trong nghịch-cảnh.
Sự
tranh-chấp giữa Phàm-Ngă và Chơn-Ngă dằn-co
gay-cấn. Ở giai đoạn đầu, Chơn-Ngă
dễ bị Phàm-Ngă khống-chế, rất
dễ nghe lời dụ-dỗ của Lục-Căn,
Lục-Trần do đó mà Chơn-Ngă, ở giai đoạn
nầy, vang lên một cách yếu-ớt với
tội-lỗi và ác-trược, v́ vậy mà Phàm-Ngă
thắng, Chơn-Ngă phải thua và con người
dễ-dàng sa-ngă vào tội-lỗi với ác-trược.
Sa
vào ác-trược là tạo nhân không lành, Nhân không
lành th́ Quả không ngọt, quả không ngọt th́
gặp đắng cay, chua-chát. Cứ như vậy mà
tiếp tục măi cho đến khi nào phát sợ cái
đau khổ. Chừng ấy con người mới
chịu bắt đầu lắng nghe nhiều hơn
tiếng nói của Chơn-Ngă, rồi mới phát hùng-tâm,
dùng ư-chí để vượt lên khỏi sự
thấp hèn tội lỗi và can-đảm xuất
khỏi nghiệp dữ để tiến bước
vào nghiệp lành.
Thế-gian
có nhiều người, v́ màn vô-minh che lấp cái
Chơn-Ngă nên chưa ngộ được t́nh-yêu
của Thượng-Đế nên có nhiều lư-luận
chống báng Thượng-Đế.
Thượng-Đế
bảo thương yêu con cái của Ngài, sao c̣n
trừng phạt?
Sao
Thượng-Đế bắt con người đau
khổ ngụp-lặn trong biển nước
mắt với những thảm-kịch dẫy-đầy
hận-thù xâu-xé giết-chóc?
Thượng-Đế
ở đâu? Tại sao để cho chiến-tranh
cứ gào-thét khắp nơi? Thân phận con người
luôn luôn bị kềm-kẹp đe-dọa từng giây,
từng phút với bao bất-trắc của cuộc
đời?
Có
thượng-Đế hay không? Có t́nh yêu Thượng-Đế
hay không?
Thảm-kịch
chiến-tranh là ǵ? Phải chăng nó nẩy-mầm
từ những tư-tưởng xấu-xa của con
người từ những tham-vọng, ḷng
ganh-tị ích-kỷ nhỏ-nhen của ta?
Những
tư-tưởng xấu ấy là những nhân thúi
đă cấu-tạo thành quả ung độc
kết-thúc bằng cảnh chiến-tranh tương-tàn
tương-sát. Máu đỏ sẽ đổ,
lệ đào vẫn rơi!
Rơi cho đến khi nào con người
biết sợ-hải chán-ngán cảnh đó rồi
mới buông vơ-khí, giă từ xâu-xé để nh́n
nhau, thương yêu nhau, bắt tay nhau sống chung
trong t́nh thương huynh-đệ.
Ai
cũng biết và biết đó là T́nh-Thương
Thượng-Đế đă ngự-trị trong ḷng
ta. Nhưng làm sao thương? Làm sao ḷng ḿnh
dễ-dàng thông-cảm với người? Cái ǵ làm
trở-ngại cản-ngăn t́nh-thương đó
đến và nẩy-nở trong ḷng ta?
Ai
cũng biết kim-cương là vật quí-giá, nhưng
khi t́m hiểu nguyên-chất của kim-cương
mới biết kim-cương xuất-phát từ phân-tử
THAN đă được thanh-lọc. Vậy con người
cũng được cấu-tạo bởi nhiều
nguyên-tử và phân-tử khác nhau làm căn-bản
cho sự sáng-tạo vật-chất nầy, trong
số đó cũng có phân-tử THAN (carbone), v́ than
nên mang nhiều ô-trược, nhưng nếu ta gia-công
trau-luyện th́ nó sẽ trở thành kim-cương
bất-hoại.
Tại
sao mỗi khi gặp cảnh lâm-nguy hay đau-khổ
ai cũng gọi đến Trời?
Ai
không nghe lương-tâm âm-thầm réo gọi mỗi
khi lầm-lỗi?
Ai
không nghe ḷng ḿnh xúc-động trước
nghịch cảnh của tha-nhân?
Tất
cả sự-kiện đó nói lên sự
hiện-hữu Thánh-Đức Háo-Sinh của Thượng-Đế:
Ngài
là Chúa-Tể của sự-sống, của t́nh-thương.
Ngài
đă tạo ra Càn-Khôn Thế-Giới, sanh ra (Cha), dưỡng-dục
(Thầy) muôn loài vạn vật,
Đă
nhiều lần Ngài sai các Thiên-Sứ giáng-phàm để
giáo-huấn con cái Ngài dưới h́nh-thức tôn-giáo,
Ngày
nay, trong buổi đời Hạ-Nguơn, chính Ngài dùng
huyền-diệu cơ-bút để khai mở CAO-ĐÀI
ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ.
Mục-đích là để dạy con cái Ngài nh́n và
biết nhau là anh em để cùng cộng-yêu ḥa-ái,
hầu tạo dựng cuộc Thái-B́nh Thượng-Nguơn
Thánh-Đức.
KẾT
LUẬN
Để
kết thúc, tệ hạ xin mượn một đoạn
Thánh-Giáo của Đức Từ-Phụ giáng
tại Nam-Thành Thánh-Thất như sau: «Nầy
các con! Nếu chưa thương nhau được
th́ cũng không nên ghét nhau. Hề các con ghét nhau
tức là tự ghét ḿnh, mà cũng là ghét Thầy.
Mà các con ghét Thầy là cơ hội tốt để
ma quỉ đến ám ảnh d́u dẫn con đi vào
nẻo u-đồ rẽ chia và hủy-diệt.»
Thượng-Đế
Chí-Tôn
(Nam-Thành
Thánh-Thất, Kỷ-Dậu 17-2-69)
Mong
sao người đọc b́nh tâm suy-luận và t́m
hiểu sâu rộng thêm lời khuyên của các Đấng
Từ-Phụ. |