Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa

 

(Mùa xuân năm Giáp Tư 1924, sau 3 năm tu học với Đức Cao Đài, Đức Ngô được ân ban nh́n thấy cảnh bồng lai trong đó có Thiên Nhăn. Tṛn 80 năm trôi qua, hôm nay chúng ta ôn lại đề tài Thiên Nhăn để hy vọng ở tương lai mỗi người tín hữu đều hoàn thành nhiệm vụ “phổ độ nhơn sanh” và “tu tánh luyện mạng” trong sứ mạng kỳ ba để được trở lại quê xưa bồng lai tiên cảnh phục lệnh trước Thiên Nhăn.)


THIÊN NHĂN

ĐẠT TƯỜNG

Một trong những đặc điểm của Cao Đài giáo là Đấng Giáo Chủ vô h́nh v́ thế biểu tượng thờ kính cũng khác các tôn giáo đă hiện diện trước kia. Nguồn gốc từ đâu Cao Đài giáo dùng Thiên Nhăn làm biểu tượng thờ kính và ư nghĩa là ǵ? Vậy chúng ta hăy cùng nhau t́m hiểu:

 

I. LỊCH SỬ VIỆC THỜ THIÊN NHĂN:

- Mồng 1 Tết Tân Dậu 1921, quan phủ Ngô Văn Chiêu, sau đàn cơ thiết lập tại Quan Âm Tự (Phú Quốc), khởi sự trường chay và học đạo với Tiên Ông.

- Sau một thời gian, Tiên Ông dạy ông Chiêu suy nghĩ cách thờ. Ông Chiêu chọn chữ Thập nhưng Tiên Ông không đồng ư.

“Tuy Ngài chịu làm đệ tử của Tiên Ông chớ chưa lập bàn thờ để thờ Tiên Ông, v́ không biết phải thờ làm sao ? Một bữa kia Tiên Ông dạy Ngài phải tạo ra một dấu hiệu ǵ riêng để thờ. Ngài bèn chọn chữ Thập. Tiên Ông nói chữ Thập cũng được song đó là dấu hiệu riêng của một nền Đạo đă có rồi. Phải suy nghĩ và tầm cho ra, có Tiên Ông giúp sức. Ngài xin huỡn lại một tuần lễ để có ngày giờ suy nghiệm. Măn tuần Ngài tầm cũng chưa ra.

Một bữa sớm mai, lối tám giờ, Ngài đương ngồi trên vơng phía sau Dinh Quận, bỗng đâu Ngài thấy trước mặt cách xa độ hai thước tây lộ ra một con mắt thiệt lớn, rất tinh thần, chói ngời như mặt trời. Ngài lấy làm sợ hăi hết sức, lấy hai tay đậy mắt lại không dám nh́n nữa. Đâu độ chừng nữa phút đồng hồ, Ngài mở mắt ra th́ cũng c̣n thấy con mắt ấy mà lại càng chói chan hơn nữa. Ngài bèn chấp tay vái rằng: Bạch Tiên Ông, đệ tử biết rơ cái huyền diệu của Tiên Ông rồi. Đệ tử xin Tiên Ông đừng làm vậy đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên Ông bảo thờ Thiên Nhăn th́ xin cho biến mất tức th́”. Vái xong th́ con mắt lu lần lần rồi mất.

Như vậy mà Ngài cũng chưa thiệt tin nên chưa tạo Thiên Nhăn mà thờ. Cách vài ngày sau Ngài cũng thấy y như lần trước nữa. Ngài cũng nguyện sẽ tạo Thiên Nhăn mà thờ th́ con mắt tự nhiên biến mất.”

- Sau hai lần nh́n thấy Thiên Nhăn hiện ra, ông cầu cơ hỏi cách thờ phượng th́ Tiên Ông dạy vẽ con mắt như đă thấy mà thờ và xưng danh là "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát" rồi dạy ông gọi Tiên Ông bằng Thầy mà thôi.

Như vậy thời điểm Đức Ngô lần đầu tiên nh́n thấy Thiên Nhăn là khi nào ?

- Trong một đàn cơ tại Cao Đài Hội Thánh, Đức Ngô có dạy:

“Hôm nay chư đệ tử thiết lễ kỷ niệm để nhớ ơn Thầy và thay mặt Thầy mời chư đồng đạo các nơi quy tụ đến mảnh đất nhỏ hẹp nầy để đánh dấu lịch sử ngày Thượng Đế ban biểu hiệu cho Đạo Cao Đài trong kỳ ba ân xá ……

Trong những ngày qua chí đến ngày nay, Tiên huynh nhận thấy ḷng ưu tư và thiết tha đến ngày kỷ niệm nầy của chư hiền đệ hiền muội từ phái đoàn các nơi đến thành phần cá nhân đă vượt sóng ngàn khơi đến để tưởng nhớ và hân hoan ghi nhận nơi đă phát sinh di tích đạo Cao Đài.”

ª Vậy ngày 13 tháng 3 năm Tân Dậu 1921 là thời điểm lần đầu tiên Đức Chí Tôn ban ân cho Ngài Ngô được nh́n thấy biểu tượng thờ kính Thượng Đế trong Kỳ Ba đại ân xá.

- Sau ba năm học đạo, một buổi chiều cuối tháng giêng Giáp Tư (Février 1924) ở mé biển ngoài Dinh Cậu, Đức Ngô được thấy cảnh bồng lai với Thiên Nhăn có Nhựt Nguyệt Tinh. Đức Đông Phương Chưởng Quản có xác nhận:

- “Chí Tôn đă dùng một di tích đầu tiên nơi Dương Đông Phú Quốc và đă truyền giao cho Ngô Văn Chiêu nhận lănh dấu hiệu Thiên Nhăn để làm biểu tượng thờ phượng trong đạo Cao Đài từ ấy đến nay.”

 

II. Ư NGHĨA VIỆC THỜ THIÊN NHĂN:

Thờ Thiên Nhăn là thờ một con mắt trái với các ư nghĩa sau:

1. Người b́nh dân thường nói "Trời cao có mắt" ư muốn nói Thượng Đế nh́n thấy tất cả mọi hành động, tư tưởng của mỗi người. Như vậy người tín đồ phải dặn ḷng luôn thận trọng trong mọi cử chỉ, lời nói, ư nghĩ cho được chơn chánh. Thí dụ:

- Bài Kinh Ngọc Hoàng Bửu Cáo có câu:

“Càn Kiện cao minh, Vạn loại thiện ác tất kiến.”

Dịch nghĩa:

Ngôi Càn mạnh mẽ, cao vợi, sáng tỏ. Việc lành dữ của muôn loài đều thấy rơ.

- Bài Kinh Cầu Giải Bệnh có câu:

“Trên Ngọc Đế mắt Thần soi khắp;

Trí công minh sửa phạt phàm gian.”

- Thánh giáo cũng có dạy:

- Đức Lư Giáo Tông nói:

“Lưới Trời đất thưa mà chẳng lọt,

Mắt Thần soi không sót mảy hào;

Ai người hiểu lư cao sâu

Đừng rằng Tạo hóa cơ cầu trớ trêu.”

- Và Đức Chí Tôn dạy:

Sách chép chữ khôi khôi Thiên vơng,

Đời ghi câu: lộng lộng lưới giăng;

Nhặt thưa, mau chậm cân phân,

Mựa rằng sơ sót, mắt Thần không sai …

Đời hằng nói: Trời cao có mắt,

Sách thường biên: Thái nhứt vô h́nh;

Minh mông đồ sộ rộng thinh,

Mà soi xét đủ t́nh h́nh thế gian.”

- Hàng Thiên ân sứ mạng phải luôn nhớ lời của Đức Chí Tôn:

- “Nầy, Thầy nói cho các con biết rằng: Chẳng giờ phút nào mà mắt Thầy không chăm nom ǵn giữ các con, Thầy đợi xem cho rơ coi cách các con lập vị ḿnh dường nào.”

Như vậy người tín hữu Cao Đài, từ chức sắc cho đến tín đồ phải luôn tâm niệm như lời dạy của Đức Mẹ:

“Họa chữ Tâm trên ḍng Thiên Nhăn,

Cho ma vương chẳng dám lăng loàn;

Để con đường thẳng bước sang,

Khỏi ai tŕ kéo đặng an tinh thần.”

Nghĩa là phải ư thức: trong ḷng luôn chỉ có một con đường thẳng hướng về Đức Chí Tôn (Thiên Nhăn), lúc nào cũng nghĩ rằng: luôn luôn có Thầy ngự trị bên ḿnh để cố gắng vượt qua những cám dổ của ma vương lục dục thất t́nh.

2. Thờ Thiên Nhăn mang ư nghĩa Đại Đồng. Bất cứ dân tộc nào cũng có thể hoạ Thiên Nhăn để thờ mà không có sự so sánh khác biệt chủng tộc, màu da … …

3. Số một là số khởi đầu cho tất cả mọi con số. Số một tượng trưng cho Đấng Tạo Hóa, Đấng hóa sanh ra muôn loài vạn vật.

4. Đạo là âm dương, Đức Chí Tôn Thượng Đế là dương, đức Mẹ là âm. Theo h́nh đồ Bát Quái Tiên Thiên, bên trái là dương. Cho nên thờ con mắt trái là ư muốn nói đến đức Thượng Đế.

5. Thiên Nhăn là biểu tượng nhắc nhở t́nh “yêu thương”: dưới ánh mắt của Đấng Tạo Hóa chúng sanh b́nh đẳng, tất cả đều được thọ nhận ân Trời không phân biệt lành dữ … … Đức Chí Tôn dạy:

- “Thầy nhắc lại lời Thầy nói khi xưa: là con nào muốn ăn cơm, Thầy cho cơm; con nào muốn ăn bánh, Thầy cho bánh. Lúc nào Thầy cũng lặng lẽ nh́n các con với luồng Thiên Nhăn đầy nét yêu thương tŕu mến.”

6. Thiên Nhăn tượng trưng cho Thần (ở Bát Quái Đài).

- Đức Chí Tôn giải thích sơ về việc thờ Thiên Nhăn như sau:

- “Đây Thầy giải sơ về cách thức thờ phượng của Cao Đài Đạo Giáo. Tại sao Thầy lại biểu các con tạo ra “Thánh Nhăn” mà thờ, không dạy thờ h́nh tượng như các tôn giáo khác ? Các con phải biết rằng: Trời là Lư, th́ Lư ấy rất thông linh bao quát Càn Khôn thế giới. Thầy đâu phải có xác phàm như các con mà tạo h́nh thể như các con. Nên chi thờ Thiên Nhăn là thờ Thầy. Tại sao Thiên Nhăn là Thầy ?

Thầy có dạy trước:

Nhăn thị chủ Tâm,

Lưỡng quang chủ tể.

Quang thị Thần,

Thần thị Thiên.

Thiên giả ngă dă.

Nhăn là cửa trái tim của con người. Trái tim ấy là Tạo Hóa, tức là THẦN. Mà Thần là cái lư hư vô. Lư hư vô ấy là Trời vậy ... ...

Hai con mắt các con là nhục nhăn, tức là âm với dương th́ cũng như Thái Cực là Thiên Nhăn, c̣n lưỡng quang là nhựt nguyệt hằng soi sáng khắp Càn khôn."

- Như vậy, về phương diện tâm linh, việc thờ Thiên Nhăn có ư nghĩa rất quan trọng với người tín hữu Cao Đài. Người tín đồ sẽ đón nhận được Thần của Đức Chí Tôn ban rải qua Thiên Nhăn mỗi khi cúng hay tịnh tập trung nh́n Thiên Nhăn. Thần đó sẽ kết hợp với Tinh và Khí trong bản thân mỗi người để thành Tam Bửu như lời Thầy dạy:

- “Hằng ngày con kiền thiền khẩn nguyện,

Chớ để tâm vọng niệm ư tà;

Tứ thời con rán gần Cha,

Nh́n ngay Thiên Nhăn ắt là Thần gom.

Con hành y là con kết quả,

Tâm được an th́ dạ mới yên;

Dứt đi tư lự ưu phiền,

Tâm linh sáng suốt diệu huyền thông tri.

Định Chơn Thần vô vi học Đạo,

Định trí tâm mới thấu chánh đường;

Định được sáng tỏ như gương,

Huệ tâm khai mở thông đường điển quang.

Con đoạt huệ Đạo vàng thông suốt,

Huệ Nhăn rồi thông thuộc mọi điều;

Cũng như đèn sáng nhờ khêu,

Rơ đường Chơn Đạo cao siêu của Thầy.”

- V́ thế chúng ta có thể thấy những tín đồ Cao Đài liễu đạo, sau khi đă chí thành thực hiện “cơ phổ độ” hay “tịnh luyện” đều mở được mắt trái.

Với những vị tu “Thiên Đạo”, kết quả nầy là ấn chứng cụ thể cho sự đắc Đạo kết tinh tam bửu sau thời gian “tu tánh luyện mạng” cho dù thuộc chi phái nào trong Cao Đài Giáo. Đoạn Thánh giáo sau cho thấy:

“Về đạo pháp, nhị hiền đệ đă được ân huệ tương truyền khẩu khuyết … …

Kỳ đệ tứ, nhị đệ truyền sang phép thâu thần và khai khiếu huyền quang là đem chơn ư vào trong và khai Thiên Nhăn.

V́ có câu:

“Thầy mở mắt th́ con sống, Thầy nhắm mắt th́ con chết”. Như vậy, khi vận hành điều tức là sẽ thấy linh diệu, nhị đệ nhớ chăng ?”

Với người tu phổ độ, chúng ta cũng có thể t́m được những h́nh ảnh thí dụ cụ thể “được mở mắt trái” như vị Đầu Họ Đạo đầu tiên của Thánh thất Tân Định (Sàig̣n), cố Đạo trưởng Giáo Hữu Huỳnh Đích đắc vị Oai Linh Chí Thánh.

- Trong quá tŕnh thờ cúng, chúng ta phải thường xuyên chăm sóc Thiên Nhăn, nếu v́ lư do nào đó bức ảnh Thiên Nhăn đă quá cũ th́ phải thay và làm Lễ Thượng Tượng trở lại. Chúng ta đọc đoạn Thánh giáo sau:

- “Này chư Thiên mạng hiền đệ. Giờ chuyển linh cơ nơi Vĩnh Minh Quang, Lăo nh́n nơi Thiên Bàn thiếu điều nghiêm trang theo khuôn luật Tạo Hóa định vị. Như thế, chư Thiên Mạng liệt vào hàng Thánh Thể, có tường chăng ? Này Thiên Mạng Ban Cai Quản nơi nầy nên nh́n vào Thiên Nhăn định ư bạch to.

Bạch: Xin Ngài tha thứ, đệ tử xin sửa lại.

Cười ... Thiên Nhăn là định vị Thiên Điều. Nhăn thị chủ tâm, nhăn hữu Thần sát thị tâm sanh, nhăn hữu quang sát diệt tâm phàm, nhăn hữu minh khai thông chơn đạo. Nếu Nhăn vô thần như thế, chư hiền đệ muội nơi nầy không tránh khỏi những điều khảo thí. Vậy Lăo ban hành nhứt ngoạt phải thay, không nên tồn tại đó hiền.

Thiên Nhăn, Nhăn quang. Dưới tam tinh nhật nguyệt, không xen vào h́nh thức. Tri tường. Đó là điều cần thiết, nên lưu tâm.”

Sau cùng chúng ta nhắc lại lời của Đức Chí Tôn, từ lúc mới lập Đạo, Thầy đă có dạy:

- “Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập "Tam kỳ Phổ độ" nầy duy Thầy cho Thần hiệp Tinh Khí đặng đủ "Tam Bửu" là cơ mầu-nhiệm siêu phàm nhập Thánh. Các con nhớ nói v́ cớ nào thờ con mắt Thầy cho chư Đạo Hữu nghe.

Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên Phật từ ngày bị bế Đạo, th́ luật lệ hỡi c̣n nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên-Đ́nh mỗi phen đánh tản "Thần" không cho hiệp cùng "Tinh Khí". Thầy đến đặng hườn nguyên Chơn Thần cho các con đặng đắc Đạo.

Các con hiểu "Thần cư tại Nhăn". Bố trí cho chư Đạo Hữu con hiểu rơ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó.”

 

III. KẾT LUẬN:

Đức Đông Phương Chưởng Quản có dạy:

- “Ngô Văn Chiêu đă kiến nhận và tiếp lănh dấu hiệu Thiên Nhăn. Nói về lư số Thiên Nhăn là con số 1, tượng trưng cho Ngôi Thái Cực.”

Tín hữu Cao Đài thờ Thiên Nhăn với mục đích:

1. Nhắc nhở tín đồ dặn ḷng

"Luôn có Thượng Đế soi xét".

“Rán lo bước đạo tu hành,

Trời cao có mắt, rán dành quả công.”

2. Mục tiêu Thế Đạo:

Thiên Nhăn gợi ư cho người tín đồ suy nghiệm thực hành Lư Đạo: “Thượng Đế đấng Tạo Hóa: sinh thành, háo sanh bố đức, soi dẫn đường về”.

Vậy người tín hữu Cao Đài khi đă được ngọn đuốc Thiên Nhăn soi đường dẫn lối và truyền Thần để có đủ đức tin cũng như được bồi dưỡng cho thân tâm đầy đủ sức mạnh th́ cũng phải cố học lấy bài học “yêu thương, háo sanh bố đức” nầy và hành cho rốt ráo trên đường sứ mạng “Phổ độ chúng sanh” nhắm vào thực hiện mục tiêu Thế Đạo hầu có đủ công đức trở lại quê xưa.

“Thiền ḷng tu, sau thấu đáo “Mắt Trời”

Tâm định rồi, hồn thông cảm cùng nơi,

Học Đạo Lư gánh độ đời há nệ.

Đạo Lư ấy trên con đường thực tế,

Gấm Đạo xinh nhờ dệt, vẽ thêm hoa;

Thêu bức tranh Đaọ Cứu Thế Kỳ Ba,

Hoa Long mở âu ca Đời, Đạo.”

3. Mục tiêu Thiên Đạo:

Thiên Nhăn giúp người tín hữu Cao Đài nhận được Thần của Đức Chí Tôn khi chăm chú nh́n Thiên Nhăn trong lúc tụng kinh và người tu luyện định Thần, gom trọn chơn dương hiệp Tinh Khí Thần “tánh mạng song tu” luyện kim đơn hầu trở lại cùng Thầy.

“Tứ thời trẻ rán gần xa,

Nh́n ngay Thiên Nhăn th́ là Thần gom.”


ĐẠT TƯỜNG

 

Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh