Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
THANH LỌC CUỘC ĐỜI NGỌC-HUỆ-CHƠN
Thực tế mà nhận định mọi sự
việc trên đời này là: khi muốn có nước
trong sạch để dùng th́ ta đem nước lọc
cho sạch đồ dơ cặn cáo, nhờ đó nước
ấy mới dùng được.
Nh́n vào thực-chất của cuộc sống c̣n, chúng
ta trải qua đoạn đường hoặc dài hay
vắn, từ buổi sơ sanh cho đến hơi
thở cuối cùng, chúng ta đă lăn lóc trong cuộc
đời gió bụi, hưởng
thụ nhiều mà đau khổ cũng không ít.
Chúng ta, “mượn áo đời để
trả nợ trái oan, th́ thử hỏi có chi bền
vững mà màng” nghĩ
ra th́:
”Giấc mộng đời nồi kê chưa chín” c̣n
nếu tính tuổi đời th́:” Ta hưởng
thụ được bao nhiêu?” rồi
ta măn:
” Lo mơi rồi lại lo chiều” chỉ
có cái: “sống,
ăn, mặc, ở, trăm chiều khổ tâm”
Mọi người chúng ta đều đi “t́m
lẽ sống”, nghĩa là ta đem cái suy-tư của
khối óc để t́m hiểu mọi cơ-năng
diễn-biến của vạn-hữu:
Mặt trời đang lên sáng sủa ở phương
Đông, nhưng bổng chốc từ đâu kéo đến
lùm mây đen kịt che khuất cả ánh sáng của
mặt trời ban mai, cũng như vừng trăng kia khi
tṛn lúc khuyết, nước dưới sông khi lớn lúc
ṛng. Vậy th́ việc đời thế sự, chúng ta làm
sao tránh được sự thăng trầm bĩ-thới!
Những sự kiện ấy, không lấy ǵ làm quan
trọng cho lắm, mà quan trọng lớn nhứt là
sự phán đoán của mỗi người trên mọi
sự việc, cũng như nước, dù ở trên h́nh
thức nào, nước cũng bị g̣ bó trong cái h́nh-thức
chứa đựng, như vuông tṛn, dài vắn, ngay cong...
Đây là chủ đề, xin tŕnh bày sau đây:
I
- Phán đoán sự việc: Người
đời thường tưởng rằng: họa phước
đều do từ ngoài mà đến với chúng ta. V́ phán
đoán như thế mà ta thường hay sợ: -
Nếu quả thật nghèo là cái khổ mà giàu là cái
sướng th́ những người nghèo như Nhan-Hồi, Socrate, đều là khổ hết sao? - C̣n những bực phú-hữu tứ-phương như
Tần-Thủy-Hoàng, Napoléon đều là hạng người
sướng nhứt trên đời hay sao? - Cũng như có người bảo rằng: “Con
là nợ, Vợ oan-gia”. Tại sao đối với
Socrate có bà vợ rất hung dữ mà ông lại cho là cái
phước lớn nhứt đối với ông? Bởi v́
nhờ bà vợ ông mà ông điêu-luyện được
cái tánh nhẫn-nại và thản nhiên đối với
sự vật trên đời. -
Nếu như, những cái mà thiên-hạ đồng cho là
họa, như: “Bần tiện,
bịnh tử, những cái đó có đi lạc vào
nhà của các bậc đại-hiền như Trang-Tử
hay Epitète th́ cũng không làm ǵ cho bậc ấy nao ḷng”. Sở
dĩ người đời đă gây ra bao nhiêu phiền
năo cho ḿnh, chẳng ngoài những sự nhỏ mọn không
đâu. Nếu ai ai cũng biết thản nhiên đối
với sự vật, b́nh tâm mà suy xét cho kỹ th́ sẽ
thấy trăm việc đều do ḿnh th́ chín mươi
chín việc không đáng cho ta bận ḷng chút nào cả. Làm cho con người phiền muộn, không phải là
tự ở sự vật, chính là ở cái cách phán đoán
về sự vật của con người: Ví như cái
chết, nếu cái chết là đáng sợ th́ ông
Socrate làm sao dám bưng chén thuốc độc mà uống?
Nhưng đáng sợ là sự phán đoán rằng cái
chết có đáng sợ hay không. Vậy th́, khi ta buồn
bực, bối-rối, phiền-năo, ta đừng trách ai,
chỉ trách ta, nghĩa là trách cái nhận định
của ta mà thôi. Ta nên nhớ rằng:”Người làm
nhục ḿnh không phải là kẻ chửi ḿnh, đánh ḿnh,
mà do tự nơi ḿnh phán đoán cho rằng nó làm
nhục ḿnh. Có kẻ nào làm cho ḿnh giận dữ th́
phải biết rằng chính sự phán đoán của ḿnh
nó làm cho ḿnh giận dữ đó... Chúng
ta suy nghĩ kỹ, sự vật trên đời như
mảnh gương trong, nếu ḿnh nh́n vào đó mà cười,
th́ nó trả cái cười lại cho ḿnh, c̣n nếu ḿnh
khóc th́ nó cũng trả cái khóc lại cho ḿnh. Người đánh ta, ta giận là tại sao? Có
phải tại người hay tại ta làm cho ta giận? Có người sẽ nói: “V́ người ta đánh
tôi nên tôi giận. Nhưng nếu ta biết người
đánh ta là người mất trí, người
hèn hạ, ta có c̣n giận người ấy nữa không?
Chắc hẳn là không, nếu ta biết suy xét . Trái lại, nếu người đánh ta là người tĩnh-táo, đầy đủ trí
thức, th́ ắt là ta không khỏi phải nổi cơn
giận dữ. Thế
cho nên, cũng th́ một sự việc xảy đến
cho ta, mà khi th́ ta điềm tĩnh như thường,
khi th́ ta lại bực tức nóng giận. Đó là
tại nơi đâu? Có phải là tại nơi sự phán
đoán của ta chăng. Mạnh-Tử có nói rằng: ”Ở đời,
đối với người mà gặp phải kẻ
dữ với ḿnh bằng một cách ngang ngược, th́
nên coi đó như là ḿnh đi trong bụi bậm mà vướng
phải gai góc. Vậy th́, chỉ nên thong thả đứng
lại lần lượt chẩm rải gở hết gai
góc. Gai góc kia có biết ǵ mà nóng giận?
Chỉ có cách xử được như thế th́
tâm ḿnh sẽ yên lặng, phiền năo sẽ không
bận rộn ta và bao nhiêu oán hận cũng tiêu tan.
Những sự ngang-ngược phạm đến ta, ta nên
coi đó như là chiếc xe lở đâm nhầm ta, như
cơn gió dữ tạt vào người ta. Như vậy có
ǵ đáng buồn đáng giận? Cách
đối xử với người vợ hung dử
của ông Socrate, ông cũng hành động như thế: Một khi kia, có người bạn đến
rủ ông đi sớm. Bà vợ ông la-lối gầm hét
om-ṣm. Ông vẫn thản nhiên. Khi ông bước ra đi,
bà đứng trên lầu đổ trút thau nước dơ
lên đầu ông. Các bạn ông tỏ vẻ bất b́nh
phản đối. Riêng ông th́ ông cười và bảo rằng:
" Nầy các
bạn ơi! Có ǵ lạ đâu! Hễ trời hết
gầm thét v́ sấm sét th́ tiếp theo là một trận
mưa to”. Ông thản nhiên trở vô nhà thay áo khác. Một lần khác, ông mời bạn bè đến dùng cơm tại nhà, không biết có việc ǵ giận dữ mà bà bưng cả mâm đồ ăn của ông (thường th́ ông chỉ ăn rau cải) quăng cả ra ngoài cửa sổ. Ông vẫn tươi cười và bảo với các bạn ông rằng: "Th́ có ǵ, bả muốn cho anh em ḿnh ra ngoài sân ngồi ăn cho mát mẻ hơn”. Quá sức tức tối, bà bèn vác chổi ra sân quơ luôn các đồ ăn mà ông đang lượm để sắp vô mâm. Các bạn ông giận đỏ mặt, tính muốn gây sự với bà nhưng ông biết trước đă nắm tay các ông bạn lại và ôn-tồn bảo: "Ví dụ anh em ta đang ngồi ăn, rủi bị một con gà mái nhảy xổ vào làm văng cả bát dỉa, các anh có đi gây sự với nó không?” Nếu một người nào
khác gặp phải những trường hợp nầy
chắc chắn là đă mất sự điềm tĩnh
rồi vậy. Thế nên, không phải tại nơi sự vật xảy đến cho ta, nó làm cho ta vui mừng hay giận dữ, mà chắc chắn là tại sự phán đoán của ta nó làm cho ta vui mừng hay giận dữ mà thôi. II
- ĐỊNH MẠNG LÀ G̀?
Đứng
trước một hoàn cảnh quay cuồng như chong chóng,
v́ đó mà con người phải bị long đầu
choá mắt. Có người cho đó là định
mạng mà ta phải nhận lănh, Nhưng đă là người
trí là kẻ biết phán đoán việc đời,
vậy cái ǵ là định mạng? và cái ǵ là tự do?
nghĩa là, cái ǵ không tùng theo ta và cái ǵ tùng theo ta?
a/-
Những cái không tùng theo ta: Có thể kể như:
Sanh, Tử, tai nạn, giàu nghèo, sang hèn... những điều
ấy nó đến với ta hoặc nó bỏ ta mà đi,
ta không có quyền cản trở nó lại được.
Bởi v́ những điều người khác ban cho ta
đặng th́ họ cũng có thể lấy lại đặng.
Ngày nay nó ở với ta, ngày mai nó sẽ qua tay người
khác. Thế th́ ta quan tâm đến nó làm ǵ? Mà càng quan tâm
đến nó th́ con người của ta sẽ trở nên
nô lệ cho nó. Lúc đó ḿnh đă mất cả cái
tự chủ của ḿnh rồi.
b/- C̣n những cái tùng theo ta th́ sao? Cũng như:
Người ta chửi ḿnh, làm nhục ḿnh, điều
đó ḿnh không thể cản đặng. V́ đó mà có
thể ta cho là nhục và làm cho ta giận dử, bực
tức, nhưng nếu ta kịp suy nghĩ và phán đoán
th́ ta cho không có ǵ và ḷng ta b́nh tỉnh thản nhiên. Cái
đó mới là cái tùng theo ta.
Ví như cái chết, là một định mạng. Dù
ta có t́m cách để trốn tránh nó cũng vô ích. Nó có
sợ ta không là cách của ta đón tiếp nó. Trong cái
guồng máy ghê gớm của tạo vật, thể
thống của con người chỉ c̣n có bấy nhiêu
đó gọi là tự do mà thôi.
Đời sống của con người phải tuân
theo cái luật tương-đối “Nhị Nguyên” nghĩa
là có “sanh” th́ có “tử”, có “lợi” tức có
“hại”, có “nên” tức có “hư”.
Nếu ta muốn có lợi mà không có hại,
có nên mà không có hư, có sanh mà không có
tử là ta sống trong cảnh mê-loạn.
Nhưng con người thường chỉ biết
muốn có nên có lợi mà không muốn có hư
có hại, v́ thế nên đối với sự
đời không thể ǵn giữ được điềm
tỉnh. V́ bởi:
- Đặng th́ vui sướng, c̣n mất
th́ phải khổ,
- Nên mà vui cười, th́ hư hại
tất phải buồn rầu. Tâm
trí con người luôn luôn bị mắc trong cái ṿng
lẫn-thẫn của cái “Sợ”.
Chưa chắc là “được” mà đă
mừng là họ thật sung sướng. Trong cái sung-sướng
ấy đă có cái Khoå rồi. V́ sợ mất nên
phải kiên cố giữ ǵn. Như vậy, họ tin tưởng
đă t́m được cái yên tỉnh cho ḷng ḿnh
rồi, nhưng nào dè lại phải đau khổ v́
mảng lo sợ cho tương lai th́ tương lai đă
báo cho biết: Không có cái ǵ trường cửu
cả. Cái ư-tưởng đó nó dày-xéo
tâm can rồi đâm ra lo nghĩ đủ điều
để ǵn giử cũng-cố cượng lại cái
lẽ sinh diệt lạnh lùng của tạo-hóa. V́
thế cho nên: “Đặng” cũng “Khổ”, mà
“Mất” cũng “Khổ”. Tâm-hồn không lúc nào yên
tĩnh. Bởi v́ mọi sự vật, cái ǵ có thể
đến với chúng ta, th́ nó cũng có thể ra đi
một cách dể-dàng. Hôm nay nó ở với ḿnh ngày mai nó
qua tay người khác.
Biết được như thế th́ bây giờ
ta phải làm sao?
Ta
phải làm cách nào mà khi đặng ta không mừng mà
rủi có mất th́ ḷng ta cũng không một măi-mai
luyến tiếc. Cái ch́a khoá đưa ta đến
sự thành công ấy không ǵ qua là chúng ta cứ yên
lặng nhảy vào trung tâm cái bánh xe tạo-hóa. Mặc t́nh
cho nó muốn xoay cách nào tùy nó.
Xưa nay, mỗi việc làm nào tôi cũng mong đem
lại kết quả theo sự mong muốn. Nhưng
nhiều khi tôi muốn nó nên nhưng nó lại hư,
mỗi lần hư là
mỗi lần tôi hết sức khổ sở. Về sau, tôi
tập làm, c̣n kết quả nên hư, tốt xấu, tôi
không bận tâm đến. Nhờ cái không bận mắc
trong cái kết quả của sự làm nên tâm hồn tôi
được điềm tĩnh thảnh thơi.
V́ quá bận tâm lo
lắng cho được kết quả tốt đẹp,
thường v́ đó mà bị hư hỏng và cũng v́
đó mà có nhiều người chung quanh tôi cho tôi là người
quá rắc-rối, khó khăn. Sau thời gian suy-tư, tôi
nhận thấy là phải chùi lau cho sạch những cái
khen chê, được mất, vinh nhục, đừng
để cho một mảy may lo sợ nó bám díu tâm
hồn ḿnh. V́ muốn được khen th́ sợ
bị cheâ, muốn được có th́ sợ
bị mất, muốn được vinh quang th́
lại sợ cái nhục nhaû chực chờ.
Lăo-Tử đă nói: “Làm sao khi cuộc sống
đài-các nơi lâu đài dinh thự mà vẫn xem thường
như lúc cùn khổ ở chốn nhà tranh vách đất.
Làm sao khi trong tay có đủ quyền hành sanh sát thiên
hạ mà không xem đó là vinh và đến khi cần
phải cầm gọng xe để làm thân trâu ngựa cũng
không cho đó là một cái nhục. Những người
ấy ở đời không c̣n có cái ǵ phải sợ
nửa.”
Sở dĩ con người, tâm hồn trở nên hèn
yếu bạc nhược là v́ quá ham mê sự sung sướng
về vật-chất nên rất sợ sự nghèo khổ.
Thật ra, chính phần vật-chất ấy làm chủ ta
mà ta không dè. Giá trị của con người không ở
nơi sự vật tích trử như: danh-vọng,
tiền bạc, xe hơi, nhà lầu, ruộng đất. III
- LÀM SAO TIẾN LÊN CẢNH ĐẠI-ĐỒNG?
Làm
sao ta đưa tâm-hồn bất-úy là tâm-hồn không c̣n
biết sợ sự khen chê của dư luận mà trong
Đạo-Học:
- Lăo-Tử đă dạy con người hăy xem
sự vật ở đời bằng con mắt Đại-Đồng
và coi những cặp tương-đối vinh-nhục,
thị phi, nên hư, tốt xấu đều như nhau
cả. Là v́ sao?
Là v́: “Sủng vi thương, nhục vi hạ -
Đắc chi nhược kinh - Thất chi nhược
kinh” (ĐĐK. 13)
Lẻ
dĩ nhiên hể: “Vinh trên th́ nhục dưới”
mà hể: “Đặng th́ sợ mất”, c̣n “Thất
th́ sợ nhục”
-
Trang-Tử, nơi
chương Thu-Thủy của Nam-Hoa-Kinh cũng nói: “Mỗi
mỗi đều có hai phương-diện: -
Muốn có “phải” mà không có“quấy” -
Muốn có “trị” mà không có “loạn” là
chưa thấu rơ cái “Lư” của Trời Đất, cái
“T́nh” của vạn-vật, ấy là mơ tưởng
Trời mà không có Đất, có
Âm mà không có Dương là hai phương diện đồng
có của mỗi sự vật. Muốn phân hai phương-diện
tương-đối ấy ra làm hai vật có thật th́
là vu phản, nếu không muốn nói là ngu xuẩn.
- Trong kinh Bhagavad Gita của Ấn-Độ có nói:
“Kẻ nào biết xem sự vật như nhau: “Sướng”
cũng như “Khổ” - “Vui” cũng như
“Buồn”, “Đặng” cũng như “Mất”;
biết xem cục đất như thoi vàng, viên đá như
ḥn ngọc là kẻ ấy đă được cơi điềm
đạm chí cực rồi. (Bhagavad
Gita - Edition Senart - tr. 153). Thế
nên, người thông đạt “sự lư” ở đời,
thấy “lợi” không vội mừng mà thấy “vinh”
cũng không vội sướng. Những cái đó là
những điều làm cho con người khổ tâm
khổ trí. Làm như không làm, lo lắng mà như không lo
lắng. Lớn nhỏ nhiều ít đều xem như
nhau. Khen cũng không mừng, chê cũng không bận tâm.
Đó là đi đến cảnh Đại-Đồng và
đó cũng là cái hạnh của các bực Thánh Nhơn.
Tôi xin kể hầu quí vị một vài câu
chuyện người xưa, để nói lên cái tâm
trạng của người Chí-Nhơn điềm
tỉnh, như thế nào. Đây là câu chuyện “Người
bắn cung”
Liệt-Ngự-Khấu
cùng với Bá-Hôn Vô-Nhân bắn cung.
Liệt-Ngự-Khấu cầm
cung mà chổ cùi chỏ lại để một chén nước.
Ông bắn liên tiếp mấy phát mà mặt nước
trong chén không chao động. Bá-Hôn Vô-Nhân nói: "Cách bắn ấy là cách bắn của người quá lo cho việc bắn, chưa phải là cách bắn của người thản-nhiên đến việc bắn (Chánh văn:”Thị xạ chi xạ, phi bất xá chi xạ daû” Ấy là cái bắn không phải cái bắn của không bắn.). Anh hăy đi với tôi lên núi cao kia kiếm chổ gần hố sâu thẳm mà bắn, chừng ấy sẽ biết anh c̣n giữ được cái vẻ điềm tỉnh ấy nửa không."
Hai người cùng đi đến
nơi bờ vực thẳm. Bá-Hôn Vô-Nhân đứng tận bên mé hố, chân
đứng nửa trên mặt đất, nửa ngoài không
không, nghiêng đầu ra sau và giương cung lên
bắn... Liệt-Ngự-Khấu thấy vậy mồ-hôi
toát ra, sợ quá té xỉu trên mặt đất.
Bá-hôn Vô-Nhân cười và nói rằng:”Bậc chí-nhân,
con mắt, trên ngó tận mây xanh, dưới xem tận
đáy đất, ngoài xem tận chân trời mà ḷng
vẫn không biết nao-núng. Có như thế th́ mới
bắn được cái bắn thản nhiên. Chớ như
anh, chưa ǵ cặp mắt đă hốt-hoảng lo
sợ, th́ làm sao bắn cho trúng đặng?” (Liệt-Tử
- J.Grenier - L’esprit du Tao - Tirer à l’Arc, P.182)
Thế cho nên, Thánh Nhân mới nói:”Người ta
chỉ biết sống trong cái yên-ổn và chỉ
biết đi t́m cái yên-ổn mà thôi. Ở trong cái
cảnh yên-ổn mà hành-động th́ dễ ǵn-giử
vẻ thản nhiên b́nh-tĩnh. Nhưng đến khi
gặp cảnh bất-an cho thân ḿnh th́ luống-cuống
như kẻ mất hồn thế th́ làm ǵ nên tṛ
trống?”(TrangTử - ch.21)
Biết
sống trong cảnh thường mà không hay
biết sống trong cảnh biến, người như
thế ấy làm sao giữ đặng luôn luôn cái
tinh-thần điềm-tĩnh? * *
*
Xét kỷ qua các học-thuyết của các tôn-giáo,
bất kỳ tôn-giáo hay học-thuyết nào, mục đích
cuối cùng là đem con người đến chổ
điềm-tĩnh tức là thanh-lọc con người cho
đến chổ cùng-cực của nhân-phẩm. Mục-đích
ấy, ta có thể t́m thấy ở người của
đức Ky-Tô khi bị quân lính đâm và gần trút
linh-hồn mà lại c̣n cầu nguyện “Xin Cha trên
Trời hăy tha tội cho chúng nó! V́ chúng nó không hiểu cái
việc của chúng nó làm”. Sự
điềm-tỉnh nầy và ḷng tha-thứ ấy, là
một sự “Thường” đối với bực
đức độ khoan-dung, mà là một sự “Bất
Thường” đối với thường t́nh nhân-thế.
Đối với Đạo-gia hay Phật-gia dùng các
phương-pháp tĩnh-tọa bồ-đoàn, mục-đích
chánh là lấy cái thanh-tịnh
làm nồng-cốt căn-bản cho công phu luyện tập
để đạt đến tinh-thần “điềm-đạm
chí cực”. Cái
đó đă cao-xa mà uyên-áo, không phải ai ai cũng làm
được. Nếu chưa vào đó, th́ khoan vội phê
b́nh. Cái tâm-trạng thanh-cao mầu-nhiệm và hùng-dũng
ấy, người xưa đă khéo mô-tả trong câu
chuyện đắc-đạo của Đức Phật dưới
cội Bồ-Đề như sau:”Khi ngồi dưới
cội Bồ-Đề, Phật giác-nhiên ngộ đạo,
tâm-trí sáng suốt hào-quang tủa khắp bốn phương...làm
rung động cả vạn-vật chung quanh. Trong khi đó
Thần Mara, là vị chúa-tể các lực-lượng
vật-chất, của tội lổi, của tối-tăm,
không muốn có người đă thoát khỏi ṿng tay nô-lệ
của ḿnh, bèn đem đạo binh ma tướng quỉ
đi t́m Phật..
Trên đường đi, Thần Mara mới gặp
Thần Cây và Thần Đất đều nói với
Thần Mara rằng:”Người ấy đă đắc
Đạo rồi, không có một sự tối-tăm nào
ẩn được bên người. Ngươi đi
kiếm làm ǵ vô ích, v́ người ấy là người
không c̣n ai trong trời đất nầy thắng
nổi.”
Thần Mara tức-tối bèn hóa phép nổi cơn dông
tố làm cho phi-sa tẩu-thạch, đất nẻ núi
nghiêng để khiếp hoảng Phật, nhưng Phật
vẫn thản nhiên ngồi yên như gổ. Túng cùng
thần Mara bèn nghĩ sang cái kế Danh-Lợi
Nữ-Sắc để lay chuyển ḷng Phật, nhưng
rốt cuộc cũng không làm sao cho Phật động ḷng.
Bấy giờ Mara bèn dùng đến oai-vủ,
Mara ra lịnh cho đoàn binh-ma tướng-quỉ
cầm gươm giáo xông vào, lấy tên lửa bắn vào
ḿnh Phật. Khi ấy Phật vẫn thản nhiên
khiến cho tên giáo tiến gần đến Phật là
đă biến thành những đoá hoa thơm, gieo rắt
chung quanh Phật ngồi.
Thấy không làm ǵ nổi
Phật, thần Mara xấu hổ nổi trận
cuồng-phong bay về động phủ. IV.- PHƯƠNG-PHÁP THANH LỌC CUỘC ĐỜI
Tôi đă tŕnh bày về sự phán-đoán sự
việc trên đời. Giờ đây tôi xin suy-luận
về phương-pháp làm sao thanh-lọc cuộc đời
để đưa con người tiến lên bực “Chí-Nhân”.
Bất kỳ một giáo-thuyết nào, nếu bàn
đến chổ cùng-cực của nhân-cách, đều
lấy tánh điềm-đạm làm căn-bản. Ví như:
-
Phật, bàn về “Tâm Vô Quái Ngại”. -
Lăo, th́ nói “Vô-Vi điềm tĩnh” -
Nho luận đến “Hạo-Nhiên chi khí”
Tất cả toàn chỉ vào một đức tánh Điềm-Đạm.
Điềm-đạm là ǵ?
Là
cái tánh “như-như bất động”, nghĩa là không
để cho ngoại vật động đến tâm ḿnh. (Bất
dĩ ngoại-vật động kỳ tâm dả -
Từ-Nguyên)
Suốt một nền học-thuật
của Lăo-Trang không ngoài cái ư là đem con người
trở về cái cơi “điềm-đạm chí-cực”.
Muốn trở về cái cơi “Điềm-Đạm Chí-Cực”
ấy ta phải làm sao?
Lẽ dỉ nhiên, muốn lên chổ cao th́ khởi
đầu từ nấc thang thấp nhứt. Nếu
muốn được một tinh-thần bất-úy, điềm-đạm
như các bực Thánh-Nhân, Chí-Nhân, trước hết
phải biết những nguyên-nhân khiến cho ḷng ta hay
chao-động, sợ-sệt.
Nguyên-nhân thứ nhứt: Là thiếu sức
khoẻ.
Sức khoẻ ở nơi sự khéo tu-dưỡng
khí-lực, chớ không phải chỉ nghĩ đến
sự điêu-luyện thân thể.
Bởi v́, có người vậm-vở nhưng khi
gặp chút nghịch cảnh là đă rụng-rời chán-nản.
Thế nên, sức khoẻ không là sức mạnh
của gân cốt, mặc dầu sức mạnh gân
cốt là hiện-tượng của sức khoẻ. Xin
đơn cử một vài bằng chứng, như:
- Napoléon đâu phải là người to lớn, nhưng
khí-lực ông rất dồi-dào, ông đánh trận
nầy qua trận kia, thức suốt đêm kia qua đêm
nọ, thế mà, tinh-thần ông vẫn minh-mẫn.
Được thế là nhờ đâu? Là nhờ ông khéo
tu-dưỡng khí-lực.
- C̣n bên Trung-Hoa và Ấn-Độ cũng có nghe nói
đến khí-công. Có nhiều nhà luyện khí nhỏ-thó
gân cốt và sức mạnh cũng tầm thường nhưng
với một cái đấm hay một cái đá hoặc
một cái ngó của họ cũng đủ làm cho
nhiều người đảo-điên ngớ-ngẩn.
Ấy là nhờ khí-lực đầy đủ dồi dào.
Nói đến “khí-lực” cũng nên phân biệt
với “sức-lực”. Hai cái khác nhau:
Khí-Lực: dưới quyền kiểm soát của
Thần.
Ví dụ như ta thường nói: “Cặp mắt
của người đó có Thần, tức là có Khí-Lực”
C̣n Sức-Lực th́ ở dưới quyền
kiểm tra của Khí.
Khí-Lực là môi-giới giữa Thần-Minh và Xác-thịt.
Khí-Lực ví như dầu săn hay thể chất
của cái xe.
C̣n Thần-Minh như là người lái xe.
Nếu không có Khí-Lực th́ Thể-Xác không bao
giờ tuân lịnh nổi ư-chí của Thần-Minh.
Ví dụ như: “Lần đầu tiên lên diển
đàn, người thuyết-tŕnh-viên, tự nói rằng:
«không có ǵ phải sợ”. Thế mà, đến giờ
phút đứng trên bụt: tim bổng nhiên đập
mạnh, tay chân rung lên và miệng th́ lập-cặp nói không
ra lời. Tự nhiên cái sợ không biết từ đâu
mà đến.
Có thể so sánh những diển tŕnh trong sự phát
điện và những diển tŕnh trong ḍng của khí như
sau:
1/- Ở trong máy phát điện; cái
bản-thể cơ bản của điện trở thành
điện và phóng ra để làm cho các loại máy điện
chuyển động.
2/- C̣n ở vũ-trụ: chứa đầy Khí
mà óc ta, giống như máy phát điện, thường
tạo ra tinh-thần và tinh-thần đó lại trở thành
Khí của ta, và Khí đó chuyển động thể xác
của ta.
Thể xác ta sanh ra từ Khí và một ngày kia sẽ
quay trở về với Khí. Xin tạm mượn một
ví dụ:
Cuộc đời chúng tôi giống như một
vốc nước mà tôi đă múc lên từ biển
cả và giử trong 2 tay tôi. Chúng tôi tạm gọi đó
là “Cái của tôi”, cũng như gọi nước là
nước của tôi, bởi ǵ tôi đă giử nó trong
tay của tôi.
Từ cái quan điểm của nước, là
một phần của đại-dương, nếu tôi
mở tay ra th́ nước sẽ rơi xuống biển
cả, mà nó c̣n ở trong tay của tôi th́ nó cũng
vẩn có thể đoàn tụ với biển cả làm
Một.
Cuộc đời của chúng ta, một phần
của khí “Hạo-Nhiên” mà đă được
gắn liền với da và thịt. Mặc
dầu chúng tôi bảo rằng đây là “Cái của tôi”,
nhưng nh́n với đôi mắt của thể xác th́ nó
chính là cái khí của vũ-trụ. Tuy rằng cái khí
đó đuợc gói ghém trong da thịt ta, nhưng nó
vẫn có thể đoàn tụ với vũ-trụ và cũng
là một phần của vũ-trụ.
Cũng như khi ta hô-hấp, là ta hô-hấp cái khí-hạo-nhiên
vào khắp cơ thể. Khi mà cái khí của ta đă
đoàn-tụ với cái khí vũ-trụ th́ ta sẽ
được mạnh khoẻ và vui vẻ, cái đoàn
tụ đó, theo Lăo-Trang là Trời Người hiệp
Một. T́nh trạng hổn hợp ấy gọi là
Huyền-Đồng và khi hai ḍng khí đó không c̣n
chảy xuôi theo ḍng với nhau th́ ta chết.
Chúng ta và khí hạo-nhiên là Một, cho nên cái động-năng
đó người ta gọi là Khí-Lực. Vậy ta
phải xử dụng tất cả khí-lực của ta lúc
ta c̣n sống. Khí-Lực
là ǵ?
Từ xưa ở Á-Đông, tiếng “Khí” đă
được nói đến rất nhiều, từ cái
“Khí Hạo-Nhiên” cho tới mọi sự vật
hằng ngày chung quanh ta, nhưng chúng ta không hiểu cái
“Khí” hằng ngày và cái “Khí Hạo-Nhiên” nó liên-hệ
nhau như thế nào. Nhờ năm giác-quan của ta mà ta
biết được rằng vũ-trụ ta hiện
đang sống, ở trong đó có màu sắc và h́nh
thể, mà bất cứ cái ǵ có h́nh thể là có một
sự bắt đầu. Thí-dụ như:
Ta nói, hiện nay mặt trời đang cháy sáng nhưng
ngọn lửa cháy sáng ấy phải có một sự
bắt đầu là v́ phải có một cái “trước”
khi bắt đầu có lửa. Nếu ta t́m tới nguyên-lai
của nó th́ ta sẽ đi tới một điểm là Hư-Vô,
nhưng Hư-Vô không thể tạo ra được
một vật ǵ cả, mà Hư-Vô cũng không phải là
một Hư-Vô hoàn toàn, nghĩa là cái Vô, theo nghĩa
của Thiền-Học là một trạng-thái mà trong đó
mặc dù là Hư-Vô nhưng vẫn c̣n có một cái ǵ.
Một cái “ǵ đó” Á-Đông dùng tiếng “Khí”
để nói trạng-thái mà chính nó là bản-chất
thật sự của vũ-trụ. Nếu ta theo đuổi
cái điều-kiện đó, xa hơn nữa ta sẽ
tới một điểm ở đó: Mặt Trời,
tinh-tú, trái đất, loài người, loài vật, cây
cối, khí Trời, mọi vật đều là Một.
Do bởi Khí là bản-chất thật sự của
vũ-trụ mà ta có “Động và Tịnh”, Hiệp và
Tan”, Co và giăn và nhiều
động-tác hổ-tương khác, nhờ đó mà vũ-trụ
hiện nay có được cái h́nh thể của nó.
“Khí” không có cái khởi đầu và cái chấm
dứt nên chúng ta và vũ-trụ là Một, đời
sống của chúng ta là một phần của đời
sống vũ-trụ và trị-số tuyệt-đối
của nó là một sự-kiện vững chắc mà trong
đó sanh, lăo, tử luôn luôn tiếp tục xảy ra.
Khi đă nói “Khí” của chúng ta là một phần
của vũ-trụ và cơ thể của ta là cái
thuyền dùng để chuyên chở cái “Khí” đó th́
tinh-thần là cái do vũ-trụ mà có, v́ đó mà ta
phải bảo-vệ và nuôi dưỡng con thuyền
thể-xác và nó là cái mà ta phải kiểm-soát sự trao
đổi “khí của ta” và “Khí của vũ-truï”.
Thế nên, muốn súc-tích khí-lực, ngoài phương-pháp
Khí-Công để tăng-gia c̣n có nhiều cách để
giữ-ǵn cho nó đừng tản mát vô ích.
- Giữ ǵn cho Khí-Lực đừng tản-mác.
Đó là phương-pháp “Tiêu-Cực”
- C̣n tập luyện Khí-Công. Đó là phương-pháp
“Tích-Cực” Tóm
lại, có 2 cách súc-tích Khí-Lực.
1/- Công-phu Dưỡng-Khí và Công-phu Luyện-Khí
Công-phu Dưỡng-Khí là”Tiêu-Cực”
Công-phu Luyện-Khí là “Tích-Cực”
Nói cách khác: Một cái Âm và một cái Dương.
Hai cái đó ta phải làm sao điều-ḥa, tức là
đi liền nhau th́ mới mong có được một
sự thăng-bằng của sức khoẻ. Ví như:
“Một động-cơ xe hơi, muốn cho nó chạy
điều-ḥa th́ người thợ phải điều
chỉnh cái bộ phận “Chế-Ḥa-Khí” (Carburateur) phân-phối
xăng và dưỡng khí cho đều nhau th́ máy móc
mới chạy được. Nếu săn vô nhiều
hay dưỡng-khí ít hơn th́ máy cũng không chạy
được.
a/-
Công-phu Dưỡng-Khí
Ở
đây, chúng tôi xin quí Huynh-Tỷ lưu ư đến
phần công-phu “Dưỡng Khí”.
Ví như: - Về phương-diện tiền
bạc; Nếu muốn có tiền, trước phải
cần-kiệm rồi sau mới lo làm cho có tiền thêm,
Về phương-diện súc-tích “Khí-Lực” cũng
thế
Thể-xác và Tinh-thần quan-hệ với
nhau rất mật-thiết. V́ một thể-xác bạc-nhược
th́ không bao giờ có đặng một tinh-thần dũng-mănh.
Nguyên-nhân làm hao-tán khí-lực là sự náo-động
vô-ích.
Ở đây, quư Huynh-Tỷ nên phân
biệt “Náo-Động và Hoạt-Dộng”
Ví
dụ như: Chúng ta cho máy xe hơi chạy là để
di-chuyển từ một chổ nầy đến một
nơi khác. Khi đến nơi rồi, lẻ dĩ nhiên là
ta phải tắt máy cho động-cơ ngừng nghỉ.
Thế nhưng mà, ta lại vô ư không tắt máy để
máy chạy hao xăng vô ích.
Vậy,
để máy xe chạy vô ích: Đó là Náo-Động
C̣n cho máy xe chạy trong lúc di-chuyển: Đó là Hoạt-Động.
Con
người cũng thế, những phung-phí vô lối khí-lực
chỉ làm tiêu hao khí-lực mà không bổ dụng vào
đâu cả. Như: la hét, cười cợt, nhảy nhót.
Những cái đó, toàn là những cử động vô ích,
dù là một cử động nhỏ-nhít
Như đă nói, trong đời ta có 2 lối hành-động:
Một là “Hoạt động” - Hai là “Náo-động”
Nói cách khác, “Hành-động” có ư-thức và
hành-động vô-ư-thức.
Một đàng là: Ư-thức, Phê-phán và Lư-luận
C̣n một đàng là: Vô-Ư-Thức, Náo-động,
Nhứt-thời, Không suy nghĩ ǵ cả
Vậy trước tiên, ta phải kiểm-soát
từng hành-vi vụn-vặt để cho cái Thần
của ḿnh thường-xuyên làm chủ được cái
khí-lực và thân-thể ḿnh.
b/ Công-phu Luyện-Khí:
Trước
khi đi qua công-phu luyện-khí, cần nên biết:
Mỗi tế-bào trong cơ thể không khác nào
mỗi cá-nhân trong một xă-hội, có tổ-chức
hẳn-ḥi.
Nó có một tri-thức riêng, biết tuân theo ư-chí
của Thần-Minh.
Những nhà Fakir bên Ấn-Độ, những nhà
nội-công của Trung-Hoa có thể sai khiến
tạng-phủ họ đến ngưng hơi thở,
mạch máu ngừng chạy, mà người phương Tây
không thể hiểu nổi.
Đó không phải là chuyện hoang-đàng mà là
nhờ ở công-phu Luyện-Khí.
Ông Soulíe de Morant, một nhà nghiên-cứu về khoa châm-cứu
của Trung-Hoa, ông có viết trong cuốn Acupuncture Chinoise
một đoạn như sau:”Mỗi tế-bào có
vừa đủ tri-thức để làm việc theo trách-vị
của nó. Mỗi một nhóm tế-bào, mỗi một
tạng phủ cũng có một tri-thức hiểu
biết và phản-động riêng; để làm việc
theo phận sự của nó đối với toàn cơ
thể. Các tri-thức ấy chịu dưới quyền
sai sử của một ư-thức chung, đó là
Thần-Minh hay Ư-Chí”.
Những
nhà khí-sỉ Trung-Hoa và Ấn-Độ sai khiến
tạng phủ nói chuyện với tạng phủ, như
chủ nói chuyện với tớ. Họ tập trung
tạng phủ quen với kỷ-thuật của Ư-Chí.
Nếu mỗi ngày, ta không tập luyện cho tạng
phủ ta quen với kỷ-thuật với sự tuân
mạng lịnh của Thần-Minh th́ khi hữu sự nó
không nghe theo ta. Ta là nhà kỵ-mă, hằng ngày con ngựa
ta cởi, ta thả nó đi dông đi dài, không ai kềm
chế nó. Đến ngày ngộ chiến, ta sai biểu nó
chạy theo ư ta, nó không nghe.
Khi ta đă biết nguồn khí-lực cho ta sự
sống th́ ta cần phải tích-tụ nó và phát triển
nó, nên dù một cử chỉ náo-động nhỏ-nhít
nào cũng làm mất mát phần nào Khí-Lực. Bởi
vậy, nếu ta biết kềm hảm tư-tưởng,
biết kiểm-soát cảm-xúc và chỉ hành động v́
một mục-đích xác-định th́ ta sẽ đạt
được sự tập trung khí-lực.
Cũng ví như, khi ta muốn đóng một cây
đinh vào ván, cái đầu mủi đinh cần
phải nhọn, mà càng nhọn th́ chiếc đinh
được đi càng sâu vào tấm ván dể dàng hơn,
nghĩa là khí-lực càng dồi-dào khi nào năng-lực
được tập trung. Đó là đặc-điểm
của phương-pháp Thiền bằng cách tập trung
tất cả khí-lực và tinh-thần vào một điểm
duy-nhứt.
Ở đây, tôi cũng muốn nói thêm cái đặc
điểm của phương-pháp “Khí-Công” hay là “Công-phu
dưỡng khí” mà người tu luyện cần áp
dụng để tuyệt-đối không “dùng thuốc
men để trị bịnh” mà chỉ nương-tựa
vào Công-phu Tu-Dưỡng, tự ḿnh làm cho yên-tĩnh
tinh-thần, điều ḥa hơi thở, đưa cơ
thể một t́nh-trạng “Ôn cố thăng bằng Âm-Dương
khang-kiện”.
Nói thế sẽ có nhiều vị chưa nắm
vững niềm tin v́ lời nói ấy có vẻ phản
khoa-học. Nhưng riêng phần chúng tôi, v́ hoàn cảnh
khan hiếm thuốc men nên sau cơn bạo bịnh tôi
thử đem phương pháp nầy ra áp dụng th́
kết quả thâu lượm được rất là
khả-quan và ở đây, tôi xin tạm tŕnh bày một cách
sơ lược về nguyên-tắc để góp ư cùng
quí Huynh Tỷ hầu thực nghiệm khi cần.
Thưa quí Huynh Tỷ,
Xuyên qua các lời chỉ dạy của Thiêng-Liêng
cộng với một số tài liệu thu-thập trong
kinh sách, chúng tôi xin tŕnh bày phương-pháp “Công-Phu Dưỡng-Khí”
hay là “Khí-Công” mà tôi đă thực nghiệm
qua hai thời kỳ:
a/- Một thời kỳ hữu h́nh được
tiến hành trước,
b/- Một giai đoạn vô h́nh tiến hành sau. a/-
Trong “Thời kỳ hữu h́nh”
Chủ yếu có “động công” và “tĩnh
công”.
- Động-Công đ̣i hỏi sự vận-động
tứ-chi, cơ thể, theo những tư thế tạm
gọi là “thể-dục thể-thao” như:
“Lục-Đoạn-Cẩm, Bát-Đoạn-Cẩm”
hay là “Thập-Nhị Cẩm-Đoạn”
Những tư-thế nầy chỉ truyền bá cho ai
là người dốc ḷng tu luyện qua các vị Chơn
Sư.
- Tĩnh-Công đặt nặng vấn đề
“yên tâm tinh-thần, định hồn tỉnh phách” là
làm sao đưa bản thân đến một t́nh-trạng
buông xả hoàn toàn (relaxation complète) bằng những
“trạm công” như: Tịnh-Định, Quán-Tâm, Điều-Tức
kế đến là những môn “thụy công” như:
nằm thẳng, nằm nghiên, nằm ngửa, nằm
sấp. b/-
Đến giai đoạn thứ II là “giai đoạn vô-h́nh”
th́ phương-pháp công-phu dưỡng-khí có thể xem như
thật sự theo đúng yếu chỉ “Đạo-Pháp
tự nhiên” của Lăo-Tử, nghĩa là “Đạo
bắt chước tự nhiên” làv́ phương-pháp
công-phu dưỡng-khí và sinh hoạt hoàn toàn nhứt trí,
cũng như, tinh-thần và thể-xác hiệp-nhứt
vẹn toàn, trong khi lao-động hay nghỉ ngơi. Tùy
theo thời-gian mà linh-động để dưỡng khí
và vận khí trên căn-bản thường xuyên để
tăng-cường khí-lực.
Tóm lại, muốn đem lại quân-b́nh cho cuộc
sống bằng phương pháp “Rèn Tâm Chỉnh Thể”
trong thể-dục thể-thao của Lăo-Học là cố
gắn làm sao cho “Tâm Yên” để “Thần
vửng” với hệ-quả đương nhiên :”Thần
vửng th́ Tinh Đầy”.
Đạt
được cái mục tiêu ấy, kể như đă
nắm được Đạo, đồng-hóa
được với Đạo, Huyền-Đồng cùng
Trời Đất, để cùng với Đạo “Trường-Sanh
Cửu Thị - ĐĐK 59” nghĩa là; áp dụng
lối “Tự Tu Tự Dưỡng” để
đi từ sinh-lư vào với tâm-lư, nhưng chủ
yếu là lấy sự điều-tiết nhịp điệu
hô-hấp làm mấu chốt, v́ công-năng thở ra hít vào
là h́nh ảnh trung-thành của tiết-điệu
vận-hành trong vũ-trụ, giống như sự luân-lưu
chuyển-động quân b́nh của Âm-Dương.
Nói cụ thể nhứt: “Con cưng trong nhà không
dạy dổ, muốn ǵ được nấy, tha hồ
làm ǵ th́ làm, đến khi cần sai khiến điều
ǵ, biểu nó không nghe. Đó là chuyện mà ta không
lấy ǵ làm lạ”.
Bởi vậy trong những hành vi vụn-vặt
hằng ngày, ta phải kiểm tra kỷ lưởng và
phải dụng ư-thức mà điều khiển nó. Ta
phải tập sai khiến nó: từ cái ăn, cái ngủ,
cái làm. Mỗi cái việc nhỏ nhặt như thế ta
cần phải tập cho quen biết vưng lời th́ khi
đến việc lớn không bao giờ nó dám cải.
Muốn tu luyện tinh-thần tự-chủ ấy, ta
cần nhiều cách. Lấy một vài ví dụ nhỏ
nhặt như:
- Có anh học tṛ khoa khí-công hỏi thầy:
“Thưa Thầy! Công-phu đầu tiên của
một nhà luyện-khí phải như thế nào?”
- Ông
Thầy đáp:” Anh phải dán c̣ cho thật ngay
ngắn và luôn luôn ở bên tay mặt bao thơ”
- Anh
học tṛ hỏi: “Chỉ có vậy thôi sao?”
- Ông
Thầy trả lời: “Chỉ bấy nhiêu đó thôi”
-Thấy
anh học tṛ ngơ-ngác, ông Thầy nói thêm:”Th́ anh
cứ làm như thế đi, tức là anh thâu bớt cái
hành động hấp-tấp, vụt-chạt của anh.
Luôn luôn anh phải b́nh-tỉnh dù là một việc
nhỏ. V́ lúc đó Thần-Minh anh vẫn làm chủ cái
tay luôn. Cứ một hành vi, bất kỳ lớn hay
nhỏ, anh đừng thấy việc nhỏ mà khinh, v́ chính
những hột cát nhỏ nhứt ấy hiệp lại
mới thành bải sa mạc” KẾT
LUẬN
Muốn có một tâm-hồn trong trắng, một
tinh-thần đại-dũng không phải là một
việc khó, mà không thể làm được. Cần
yếu là phải có một đức tánh căn-bản là
thành-thật.
Phật, nhà hiền-triết đă nói:”Thành
thật với ḿnh là đừng gạt ḿnh, đừng
binh-vực cái sự yếu-đuối lầm-lạc
của ḿnh, đừng nói một đàng mà làm một
ngả và đừng sợ dư luận phê phán.
Thế nên, muốn thanh-lọc cuộc đời
để đem tâm hồn đến nơi giải-thoát
là chổ cứu-cánh của các hành-vi cao-thượng th́
một khi đă quyết-định thi hành th́ đừng
v́ lư do nầy hoặc lư
do nọ để binh vực sự yếu-đuối
của ḿnh mà xao-lăng công-phu. Quí
vị chắc cũng đồng ư với chúng tôi là giá-trị
con người không căn-cứ trên số tài-sản, tước-vị
của ḿnh tích-trử từ xưa đến nay hay
của người khác ban cho mà phẩm-cách của con người
ở nơi tinh-thần tự-do của ḿnh đối
với ngoại vật. Ta hăy thành thật thi hành ngay cái
ư-nghỉ ấy trong các hành- động hằng ngày. Hành-động
ấy phải liên-tục không sai chạy mà nếu
rủi có sa ngă một đôi khi th́ ta hăy có can-đảm
và thành thật mà quài trở về con đường
đă định.
Thế thường đă nói: “Ta đói th́
tự ăn mới no chớ không thể nhờ người
khác ăn thế cho ḿnh no. Vậy
th́ trên con đường đi tầm tu học Đạo
cũng vậy, tự ḿnh tu ḿnh tiến, có tự
thanh-lọc cuộc đời của ḿnh th́ ḿnh mới t́m
thấy Chơn-Lư. Nhược bằng, ta nhận chân giá-trị
và hạnh-phúc đời người ở nơi
ỷ-lại vào ngoại-vật rồi một đàng
lại đem thân lăn-lóc, nô-lệ cho cái danh cái
lợi, cầu cạnh vào thế-lực để mưu-cầu
hạnh-phúc cho ḿnh, thử có trường cửu không?
Vậy ta phải quyết-tâm qui cả
nghị-lực của ḿnh vào việc thanh-lọc ấy th́
sớm muộn ǵ chúng ta cũng sẽ gặp được
Chơn-Sư đến dẩn dắt ta.
Ḍng suối kia trong xanh mát mẻ phát xuất từ
nguồn rồi cuồn-cuộn chảy xiêng qua triền,
qua khe, qua rảnh. Khi xao động, lúc lặng im, khi tràn-đầy,
lúc vơi cạn.
Cuộc đời trần-tục của ta cũng
thế! Một phần trực-tiếp với nhơn-quần
xă-hội, c̣n một phần th́ gián tiếp với Thiên-Cơ,
ta phải cam chịu biết bao nhiêu nổi chua cay, điêu
đứng. Nhưng nước
kia bao phen lôi cuốn theo bùn-nhơ, cặn-cáo, bao phen qua
vịnh qua voi th́ bao phen nước đó cũng đă
lọc bùn lóng cặn rồi cho đến khi giáp mặt
với biển cả bao-la th́ nước cũng đă
trở nên trong trắng.
Riêng phần ta, thanh-lọc cuộc đời là
diệt-trừ cái tiểu-ngă để hiệp cùng cái
đại-ngă là cái Tâm như-như bất-động
thản-nhiên điềm-tỉnh.
Trong “Thiên Đạt-Sanh” Trang-Tử có nói đến
chuyện:”Người tật bướu bắt ve” như
sau:
- Trọng-Ni đi qua nước Sở, vừa ra
khỏi rừng, gặp một người tật bướu
bắt ve rất lẹ bằng một cây sào dài
và rất chắc-chắn, cũng như bắt
bằng tay.
- Trọng-Ni mới hỏi người ấy:”Anh
thật là tài, xin anh cho biết cái thuật của anh”
- Tên tật bướu mới đáp:”Thuật
của tôi đây:
- Trong 6 tháng tôi chỉ tập để viên đạn
đứng thăng bằng trên ngọn sào mà không hề
rớt.
Khi tôi để đứng dược 2 viên th́ ít
con ve nào thoát khỏi tay tôi.
Khi tôi để đứng được 3 viên th́
10 con tôi chỉ trật có một con.
Khi tôi để đứng được 5 viên th́
tôi không hề trật một con nào.
Cái thuật của tôi là qui hết tinh-thần vào
chổ chí hướng mà tôi mong đạt đó.
Tôi trị cái tay tôi, tôi thanh-lọc cái thân-thể tôi
cho đến khi nào nó thành một khúc gổ, không c̣n
cảm động, không c̣n xao-lảng nữa.
Trời Đất tuy là lớn, vạn-vật
dẩu là nhiều, nhưng tôi chỉ thấy có con ve mà tôi
muốn bắt đó thôi.
Không một cái chi bên ngoài làm cho tôi xao-lăng ngoài cái
ư tôi muốn đó, th́ con ve làm ǵ thoát khỏi tay tôi? Tất cả những ǵ tôi đ Tất cả những ǵ tôi đă thưa tŕnh quí vị là những sự thay đổi hết sức mau lẹ của cuộc đời qua một cuộc tiếp xúc với Chơn-Sư dạy dổ tôi trong giai-đoạn vừa qua và ban cho tôi nhiều ấn-chứng hữu-h́nh mà tôi không tiệân tŕnh bày ở đây
Tôi chỉ thưa tŕnh cùng quí vị những nét
đại-cương và chung-qui là tôi đặt cả
niềm tin vào đấng Vô-H́nh dẩn dắt tôi trên con
đường “Thanh lọc cuộc đời”
Vậy kính xin quí vị hướng về với Thiêng-Liêng
để thành khẩn cầu xin th́ sẽ được
đáp lại v́, khi quí vị “gỏ cửa th́ sẽ có
người ra mở cửa và đón tiếp quí
vị”.
Xin kính chào. NGỌC-HUỆ-CHƠN
|
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|