MỘT
VÀI SUY NGHĨ VỀ LỄ NHẬP MÔN CAO ĐÀI
Bài
nói chuyện tại Cơ quan Phổ thông Giáo lư
Đại đạo
9.30
sáng Chủ nhật, 17 tháng 12 năm 2000
THANH
MAI
Trong
đạo Cao Đài hiện nay, ở một số
nơi, các buổi lễ nhập môn đôi khi chưa
được chuẩn bị chu đáo và có lẽ
c̣n mang tính chất khá h́nh thức, thể hiện
qua các điểm như sau:
-
Tên hai người tiến dẫn nhập môn
nhiều khi được ghi cho có lệ, có h́nh
thức.
-
Người nhập môn chưa được
học hiểu qua những điều căn bản,
đơn giản nhất về đạo Cao Đài,
kinh cúng tứ thời và luật pháp của Đại
đạo, những nghi thức lễ bái thường
ngày, thậm chí là cách lạy cũng không biết!
-
Người nhập môn chưa hiểu rơ ư nghĩa
và chưa ư thức được tầm quan
trọng của lời minh thệ nhập môn.
Vậy,
việc tổ chức lễ nhập môn như
thế đă đúng với luật Đạo chưa?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hăy t́m
hiểu những điều mà luật Đạo quy
định đối với người muốn
nhập môn cầu Đạo.
Tân
luật
của Đại đạo Tam kỳ Phổ độ,
chương II: Về người giữ Đạo,
đă quy định rơ:
Điều
thứ Chín: Muốn xin nhập môn phải có hai người
đạo đức tiến dẫn đến người
làm đầu trong họ. Hai người tiến
dẫn phải lo lắng chỉ biểu và d́u
dắt người mới cho hiểu biết đạo
lư.
Điều
thứ Mười: (...) Buộc phải thuộc kinh
và thông hiểu luật pháp của Đại đạo
truyền ra.
Điều
thứ Mười hai: Nhập môn rồi gọi là tín
đồ. Trong hàng tín đồ có hai bực:
Một
bực c̣n ở thế, có vợ chồng làm ăn
như người thường song buộc phải
giữ trai kỳ hoặc sáu hoặc mười ngày
trong tháng, phải giữ ngũ giới cấm và
phải tuân theo thế luật của Đại
đạo truyền bá ...[1]
Nói
thêm về Điều thứ Chín, đức Giáo tông
Vô vi Lư Thái Bạch chú giải rằng: Mỗi khi
có người muốn nhập môn cầu Đạo,
biết làm lành lánh dữ, trước phải có
hai người đạo đức, một người
bảo cử, một người tiến dẫn bày
biểu cách cúng lạy, lễ nghĩa của nhà
Đạo, ăn ở nết na, học kinh luật.[2]
Như
vậy rơ ràng là luật Đạo có quy định
buộc hai người tiến dẫn phải có trách
nhiệm hướng dẫn, d́u dắt người
muốn xin nhập môn cho hiểu biết đạo
lư và luật pháp của Đại đạo cũng
như kinh kệ và các nghi thức cúng kính hằng
ngày chứ không phải chỉ ghi tên hai người
tiến dẫn cho có h́nh thức như một
số nơi trong Đạo chúng ta lâu nay thường
làm.
Luật
Đạo buộc người nhập môn phải
hiểu biết những điều vừa nêu trên
nhưng câu văn không quy định rơ phải
học những điều đó trước
khi nhập môn hay nhập môn rồi mới học cũng
được. Tuy nhiên, trong lời chú giải
của đức Lư Giáo tông, ba chữ “trước
phải có...” đă
làm sáng tỏ điểm ấy. Nghĩa là phải
học cho thông thuộc các điều căn bản
trước khi nhập môn.
Xem
chúng nhân mà tạo tín đồ.
Noi theo đó, chúng ta hăy thử t́m hiểu khái quát
về lễ rửa tội của Ki Tô giáo.
Theo
quy định của Giáo hội Ki Tô giáo, tất
cả trẻ em thuộc các gia đ́nh có đạo
ḍng đều phải được làm lễ
rửa tội không quá một tháng sau khi sinh; ngoài
ra, những ai đă khôn lớn, nếu muốn lănh
bí tích rửa tội th́ phải đến xin
với linh mục chánh xứ cho theo học một
lớp giáo lư để biết những lẽ
cần trong Đạo và buộc phải có đủ
các điều kiện sau: Phải tin những điều
dạy trong kinh Tin kính, phải ăn năn sám
hối về những tội đă phạm và
dốc quyết chừa cải. Sau khi kiểm tra tŕnh
độ giáo lư của người đạo tâm,
linh mục chánh xứ mới cho phép làm lễ
rửa tội.[4]
Chúng
ta thấy lễ nhập môn trong Ki Tô giáo được
gọi là lễ rửa tội. Người Ki Tô giáo
tin tưởng rằng khi được lănh bí tích
rửa tội th́ những tội lỗi bao gồm
tội tổ tông và những tội lỗi đă làm
trước đây đều được rửa
sạch.[5]
Hiểu
theo luật nhân quả th́ tội lỗi chỉ có
thể được bù trừ bằng ḷng ăn năn
sám hối và sự tích cực làm điều
thiện. Ở đây chúng ta có thể hiểu hai
chữ rửa tội theo nghĩa là: trước
đây v́ chưa được học đạo nên
con người không phân biệt được
phải trái, đúng sai, tội phước, v́
thế đă gây nhiều tội lỗi, nhưng sau
khi được học giáo lư, được
học những lời Chúa dạy th́ kể từ
ngày được rửa tội, con người
ấy quyết tâm từ bỏ ma quỷ và tội
lỗi để trở thành một con người
hoàn toàn khác, để sống xứng đáng là
con của Thiên Chúa.
Như
vậy, chúng ta thấy rơ ràng, khi được lănh
bí tích rửa tội, tâm hồn người tân tín
đồ như được thăng hoa và có
một sự khác biệt hoàn toàn về mặt tâm
linh giữa trước và sau khi nhận phép bí tích
rửa tội. Do đó đối với người
Ki Tô giáo, lễ rửa tội được tổ
chức hết sức trang trọng và được
xem là một bước ngoặt quan trọng trong
đời sống tâm linh của một con người.
V́
sao Giáo hội Ki Tô buộc phải dọn ḿnh cho
trong sạch và học qua phần giáo lư căn
bản trước khi làm lễ rửa tội? Linh
mục Trọng Thu giải thích:
Trong
Thánh kinh Chúa phán: “Đừng ném của Thánh cho
con chó, và đừng bỏ hạt trai trước
mặt con lợn.” (Math. 7.6). [Câu
này có nghĩa là đừng trao vật quư cho kẻ
không biết giá trị của nó.]
Câu
nói đó thật cứng rắn và gắt gao nhưng
đă nói lên tất cả sự thận trọng
của người làm cũng như kẻ chịu các
bí tích.
Bí
tích là của Thánh, nếu đem phân phát bừa băi
cho người không hiểu biết ǵ, hay hiểu
biết lờ mờ, th́ bí tích đâu c̣n được
quư trọng xứng đáng và đâu có đem
lại lợi ích mong muốn.
V́
thế mà trước khi chịu bất cứ các bí
tích nào, Giáo hội buộc đương sự
phải chuẩn bị bằng một thời gian
học hỏi và dọn ḿnh.[6]
Phàm
ở đời, cái mà người ta đạt
được một cách dễ dàng thường không
được trân trọng giữ ǵn, c̣n những
ǵ phải đổ bao công sức khó nhọc để
đạt được th́ mới được
quư trọng ǵn giữ.
Xem
truyện Tây du, chúng ta thấy ở đoạn
cuối, khi thầy tṛ Tam Tạng đến
được Lôi Âm tự vào ra mắt Phật
tổ xin thỉnh kinh th́ hai vị đại đệ
tử của đức Phật là A Nan và Ca Diếp
đ̣i Đường tăng phải biếu lễ
vật ǵ th́ hai ngài mới trao kinh cho. Vậy
phải chăng ở cửa Phật cũng có
chuyện đ̣i của hối lộ? Trong Giải
mă truyện Tây du tác giả Lê Anh Dũng giải
thích việc này như sau:
Truyện
Tây du kể rằng:
A
Nan, Ca Diếp dẫn Đường tăng xem
khắp tên các bộ kinh một lượt, đoạn
nói với Đường tăng: “Thánh tăng
từ phương Đông tới đây, chắc có
chút lễ vật ǵ biếu chúng tôi chăng? Mau
đưa ra đây chúng tôi mới trao kinh cho.”
Tam
Tạng nghe xong nói: “Đệ tử là Huyền
Trang, vượt đường sá xa xôi, chẳng
chuẩn bị được quà cáp ǵ cả.”
Hai
vị tôn giả cười nói: “Hà! Hà! Tay
trắng trao kinh truyền đời, người sau
đến chết đói mất.”
Đọc
tơ lơ mơ, lắm người bảo rằng
A Nan và Ca Diếp đ̣i ăn hối lộ! Thực
ra làm ǵ có chuyện ṿi vĩnh của đút lót
ở cửa Phật!
Trong
mười đại đệ tử của
Phật, ông Ca Diếp đứng hạng ba, A Nan
đứng thứ mười, đều đắc
quả a la hán, dứt bỏ hết các lỗi
lầm, không lẽ lại vướng lụy v́ chút
của cải vụn vặt của thế gian ư?
Theo
lịch sử Thiền tông Ấn Độ, Phật
Thích Ca là Sơ tổ, Ca Diếp là Nhị tổ, A
Nan là Tam tổ. Bậc giác ngộ đă ĺa thế
gian, thoát ṿng sanh tử, làm sao có thể mở
miệng ṿi của lót tay?
Khi
Tôn Hành giả khiếu nại sự việc bị
đ̣i lễ vật, Phật tổ cười nói:
“Nhà ngươi cứ b́nh tĩnh. Việc hai người
(A Nan, Ca Diếp) ṿi lễ các ngươi, ta đă
biết rồi. Có điều, kinh không phải trao
cho một cách dễ dàng, không thể lấy không
được.”
Cuối
cùng th́ Đường tăng cũng phải dâng
cho các ngài chiếc b́nh bát bằng vàng nguyên là
của vua Đường tặng cho ông trước
lúc ra đi thỉnh kinh.
Hành
động của Đường tăng ở đây
là ẩn dụ, có tính cách biểu tượng. Theo
truyền thống đạo học th́ đạo pháp
không thể truyền thụ dễ duôi, cho nên
kẻ học đạo, muốn thọ pháp,
phải đánh đổi. Đánh đổi có
nhiều h́nh thức.
Khi
Thái tử Cồ Đàm t́m đạo giải thoát,
Ngài đă phải đánh đổi cả ngai vàng,
vợ đẹp con thơ, cả cuộc sống
nhung lụa đế vương.
Khi
Thần Quang (tức Huệ Khả, Nhị tổ
Thiền tông Trung Hoa) cầu Đạo với Sơ
tổ Bồ Đề Đạt Ma, và bị từ
chối, Ngài đă tự ḿnh chặt ĺa cánh tay trái
dâng lên thầy. Đó là ngụ ư sẵn sàng đánh
đổi sinh mạng phàm phu để thọ lănh
đạo giải thoát tối thượng của
thiền môn.[7]
Qua
câu chuyện ẩn dụ vừa rồi, chúng ta
thấy rằng Đạo là quư, người
muốn nhập môn cầu Đạo phải
chấp nhận đánh đổi. Dân tộc
Việt Nam được hạnh ngộ Đại
đạo Tam kỳ Phổ độ. Đó là
một ân sủng to tát mà đức Chí tôn Thượng
đế đă ban cho dân tộc chúng ta. V́ thế,
người đạo tâm muốn nhập môn
cầu Đạo, cần phải ư thức
được ơn phước lớn lao không ǵ sánh
bằng khi được trở thành môn đệ
của đức Cao Đài và cần phải
sửa ḿnh sao cho xứng đáng là tín đồ
của nền chánh giáo mà Thượng đế
đă gầy dựng cho con người.
Do
đó, lễ nhập môn cầu Đạo cần
phải được xem trọng và không thể
mang tính chất h́nh thức. Xưa nay, trong đạo
Cao Đài, mặc dù luật Đạo có quy định
rơ trách nhiệm của hai người tiến
dẫn nhưng có lẽ do tâm lư chung của người
đạo chúng ta là hễ thấy có người
xin nhập môn vào Đạo là mừng rồi,
một số thánh thất, thánh tịnh cho nhập môn
ngay mà không cần xét xem người đó có
hiểu biết ǵ về đạo Cao Đài chưa.
Có lẽ chúng ta sợ nếu khó khăn quá th́ người
đời sẽ nản chí bỏ cuộc mà không
chịu vào Đạo chăng?
Ngày
27.8.1926, đức Chí tôn dạy: “Đạo là
quư, của quư chẳng bán nài.” [8]
V́
thế, chúng ta nên chuộng về chất chứ không
chuộng về lượng. Nền Đại đạo
cần phải phát triển tín đồ ngày
một đông hơn, hết lớp này đến
lớp khác theo luật tre tàn măng mọc, tuy nhiên
chúng ta cần phải phát triển như thế nào
để các thế hệ tiếp nối xứng
đáng là những tín đồ Cao Đài thuần
thành, có khả năng xiển dương nền
Đại đạo theo đường lối chánh
chơn đạo đức.
Vậy,
để chúng ta cùng suy nghĩ, xin thử đề
nghị một số quy định cụ thể
về việc nhập môn như sau:
1.
Trước khi nhập môn, người đạo tâm
cần có một thời gian học hỏi những
điều rất căn bản về đạo Cao
Đài, luật lệ của Đạo cùng
những nghi thức cúng kính thường ngày. Người
xin nhập môn phải hoàn toàn tự nguyện và
phải có ư thức về ơn phước lớn
lao mà ḿnh được thọ nhận khi trở thành
môn đệ của đức Cao Đài.
2.
Hai người tiến dẫn phải thực sự
có trách nhiệm lâu dài trong việc hướng
dẫn và giúp đỡ cho người đạo
hữu cả trước và sau khi nhập môn, không
những trên phương diện tu học mà c̣n
phải quan tâm giúp đỡ về mặt đời
sống để người tân tín đồ có
thể an tâm tu học mà không bỏ Đạo
nửa chừng.
Nếu
cá nhân người tiến dẫn không đủ
sức giúp đỡ th́ có thể nhờ đếán
hội thánh hoặc tập thể Đạo giúp
đỡ. Nếu người tân tín đồ xao lăng
việc tu hành, không chấp hành luật pháp Đại
đạo hoặc bỏ Đạo nửa chừng
th́ người tiến dẫn cũng chịu
một phần trách nhiệm.
3.
Người nhập môn cần phải đọc
lời minh thệ trước Thiên bàn bằng
tất cả tâm chí thành của ḿnh. Muốn
được vậy th́ đương sự
cần phải hiểu rơ ư nghĩa và học
thuộc lời minh thệ trước khi nhập môn,
chứ không nên cầm giấy đọc như
một số thánh thất, thánh tịnh hiện nay
vẫn làm.
Việc
lập minh thệ hết sức quan trọng và chúng
ta không thể xem thường. Ở ngoài đời,
chúng ta vẫn thường nghe người ta thề
thốt với nhau bằng những lời thề
độc tức là đem tánh mạng của ḿnh
ra mà thề. Lời minh thệ của chúng ta trong ngày
lễ nhập môn cũng là một trọng thệ
hay c̣n gọi là hồng thệ. Sống trên đời,
một khi đă hứa với ai điều ǵ mà không
giữ lời th́ đă phạm vào tội bất tín
huống hồ chi đây là lời khấn hứa
với ôâng Trời th́ không thể xem thường
được. V́ thế, người xin nhập môn
cầu Đạo phải là người trưởng
thành tức là ở độ tuổi từ mười
tám trở lên mới có thể ư thức đầy
đủ về tầm quan trọng của lời
minh thệ và chịu trách nhiệm về sự
lựa chọn của ḿnh.
Không
thể sửa đổi lời minh thệ mà
cần phải đọc nguyên văn như thời
mới khai Đạo mà đức Chí tôn đă
dạy (ngày 23-24.4.1926): Tôi là (họ tên) ...
tuổi ... “Thề rằng: Từ đây biết
một đạo Cao Đài Ngọc đế,
chẳng đổi dạ đổi ḷng, hiệp
đồng chư môn đệ, ǵn luật lệ
Cao Đài, như sau có ḷng hai th́ thiên tru địa
lục.” [9]
Nhiều
người thấy lời thề nặng quá th́
sợ không dám thề nhưng xin thưa rằng có
sợ cũng phải thề. Lư do v́ sao cần
phải lập minh thệ? Đức Chí tôn đă
dạy (ngày 09.8.1926): “Quỷ vương đến
trước Bạch Ngọc kinh xin hành xác và thử
thách các con. Thầy chẳng chịu cho hành xác, chúng
nó hiệp tam thập lục động toan hại các
con, nên Thầy sai Quan thánh và Quan Âm đến
giữ ǵn các con, nhưng phần đông chưa
lập minh thệ, nên chư thần thánh, tiên
phật không muốn nh́n nhận.” [10]
Chúng
ta vẫn thường nghe câu: Con phật, phật
đưa; con ma, ma dắt. Khi chúng ta lập minh
thệ tức là đă xác định quyết tâm
của ḿnh đi theo chánh đạo, là tự đặt
ḿnh dưới sự bảo hộ của đức
Chí tôn và các đấng Thiêng liêng th́ mới
được Ơn Trên dắt d́u và bảo vệ
khỏi sự quấy hại của tà thần.
Nếu v́ sợ mà không lập minh thệ, không
nhập môn, cứ măi đứng ở ngoài ṿng
bảo vệ của Thiêng liêng th́ cũng có ngày
bị ma quỷ giựt giành, phải chịu đọa
đày nơi cơi trần khổ ải hoặc địa
ngục a tỳ th́ có khác ǵ với thiên tru địa
lục đâu!
V́
vậy, cần phải lập minh thệ và cần
phải luôn luôn hướng thượng, nắm
giữ cho thật chắc mối dây liên lạc vô h́nh
giữa ta và các đấng Thiêng liêng hầu có
thể đi suốt trên con đường chánh
đạo cho đến ngày trở về cùng đức
Từ phụ.
Đức
Vạn Hạnh Thiền sư dạy:
Đừng
e sợ tu qua một kiếp,
Không
vẹn tṛn lỡ nhịp cầu tiên.
Lo
là e chẳng vẹn tuyền,
Thủy
cần chung đăi liên miên đổi dời.
Đừng
lo chẳng có Trời tế độ,
Phật
thánh tiên chẳng hộ chẳng d́u.
Lo
là e được buổi chiều,
Trong
đêm lại phải đổi chiều thay phương.
Đừng
e sợ lạc đường cựu vị,
Lo
là không khắc kỷ vô minh.
Miệng
th́ tụng đọc câu kinh,
Mà
ḷng lại có ẩn t́nh đâu đâu.
.
. .
Dù
tu Phật, tu Trời, tu Thánh,
Hoặc
tu Tiên, Khổng Mạnh, Gia Tô,
Chung
quy một nẻo thù đồ,
Thủy
chung vẹn giữ đạo cơ mà hành.[11]
Đức
Chí tôn dạy: “Con có thánh tâm sẽ có
Thầy”,[12]
vậy, hễ có thánh tâm th́ lúc nào Thầy cũng
sẽ ngự trong ḷng ta để giữ ǵn ta
khỏi lạc lầm vào bàng môn tả đạo
hay bán đồ nhi phế. Bao nhiêu đó cũng
đủ để chúng ta mạnh dạn vững
tin lập thệ trước đức Chí tôn.
Trên
đây là ba điểm cần lưu ư khi tổ
chức lễ nhập môn. Ước mong sao những
điều này sẽ được các thánh
thất, thánh tịnh áp dụng rộng răi và
sẽ trở thành những quy định thống
nhất trong toàn Đạo đối với
việc nhập môn.
Về
phần người tín đồ, cũng rất
cần nắm rơ ư nghĩa quan trọng của ba
điểm nêu trên. Như thế, mỗi khi có
vị thiện tâm thiện ư nào muốn nhập môn
cầu Đạo, trước khi chính thức
tiến dẫn người ấy tới thánh
thất, thánh tịnh, th́ hăy thẳng thắn trao
đổi, giúp đỡ vị bạn đạo
mới phát tâm bồ đề ấy được
thông suốt lư lẽ để lập chí, lập
nguyện cho vững vàng. Đừng đơn
giản nghĩ rằng đây vốn là trách
nhiệm riêng của chức sắc chức việc,
mà hăy ư thức rằng đây chính là trách
nhiệm chung của mỗi người tín đồ
đi trước đối với một đạo
hữu mới đang muốn tiếp bước
đi theo cùng một con đường với ḿnh.
Nói
như thế, cũng có nghĩa là: Nếu thấy rơ
ai đó chưa thực tâm hiểu Đạo và chưa
thiết tha cầu Đạo, th́ đừng bao
giờ tiến dẫn người đó nhập môn,
kể cả khi người đó là thân thích
của ḿnh.
Ngày
trước, thuở ban sơ khai Đạo, đức
Chí tôn dạy chư vị Tiền bối về
việc độ rỗi người vào Đạo
như sau (ngày 27.8.1926):
“Hễ
bao nhiêu môn đệ độ rỗi của
mỗi đứa th́ là họ hàng của mỗi
đứa, hiểu à.
“Chừng
ấy về Bạch Ngọc kinh th́ gia tộc
mỗi đứa đều phân biệt, nếu
chẳng độ rỗi th́ về với hai tay không.
“C̣n
chư môn đệ đă lập minh thệ rồi
ngày sau tùy âm chất mỗi đứa mà thăng
hay tùy tội lỗi mà giáng; song buộc mỗi
đứa độ cho đặng ít nữa là mười
hai người.” [13]
Đức
Chí tôn “buộc mỗi đứa độ cho
đặng ít nữa là mười hai người”
nhưng không có nghĩa là chúng ta làm cho có h́nh
thức, chạy theo số lượng mà phát
triển tín đồ cho đủ chỉ tiêu
Thầy giao. Chúng ta đừng sợ là đưa ra
những quy định khó khăn làm người
đời nản ḷng bỏ cuộc mà chỉ
sợ ta không đủ đức để thu hút
nhơn sanh.
Muốn
cho nhơn sanh theo Đạo th́ trước nhứt
chúng ta cần phải sửa ḿnh cho ngay chánh, đạo
đức và làm những việc ích dân lợi chúng.
Ngoài đời, chúng ta thấy bệnh nhân thường
chọn danh y để xin chữa bệnh. Bác sĩ
nào cho thuốc hay, uống vô hết bệnh liền
th́ thiên hạ ùn ùn kéo tới xin chữa bệnh. C̣n
ở trong Đạo, chúng ta vẫn thường nghe
câu “Đạo là thuốc chữa bệnh
trần”. Vậy nếu ta mặc áo dài Đạo,
đi thánh thất, thánh tịnh mấy chục năm
mà tánh t́nh vẫn không thay đổi, bệnh tham sân
si dục vẫn c̣n hoài th́ người đời
sẽ nghi ngờ rằng chất thuốc “Đạo”
mà chúng ta đang uống không phải là linh
đơn diệu dược và tất nhiên là
sẽ không tin tưởng vào Đạo.
Đức
Chí tôn dạy: “Thử nghĩ lập một nước
c̣n dễ hơn dạy một người dữ
đặng hiền; huống chi trong Tam kỳ Phổ
độ này các con phải độ rỗi cả
nhơn loại khắp năm châu, th́ trách nhậm
ấy lớn lao là bậc nào? Cái hạnh và cái
đức của các con phải phù hợp với cái
trách nhậm mới đặng. Các con là đèn và
gương soi của nhơn loại, phải tập
ḿnh cho xứng đáng.” [14]
Đức
Giáo tông Đại đạo cũng dạy:
Khi
dấn thân cầm giềng mối Đạo,
Tức
là đang gỡ tháo tiền khiên,
Tức
là tạo bát nhă thuyền,
Rước
đưa khách tục vượt miền vô minh.
Th́
trước phải dọn ḿnh chơn chánh,
Quyết
một ḷng tâm hạnh nêu gương,
Ngôn
từ ḥa ái dễ thương,
Đại
nhân đại lượng dẫn đường
tha nhân.
.
. .
Thảo
mộc tốt rầy sâu quy tụ,
Ruộng
lúa lành quyến rũ chim trời,
Đất
lành hoa quả tốt tươi,
Chùa
linh Đạo sáng mọi người tin theo.[15]
Ước
mong sao cơ Đạo của chúng ta sẽ ngày
một phát triển mạnh mẽ với hàng ngũ
tín đồ thuần thành có đầy đủ tâm,
hạnh, đức, tài hầu có thể hoằng dương
mối đạo Thầy ra khắp năm châu như
lời đức Lư Giáo tông đă dạy:
Tài
với đức đổi trao phụng sự,
Tâm
với tài bực thứ không hai.
Có
tâm mà lại có tài,
Đức,
tâm, tài đủ, đạo Thầy hoằng dương.[16]
THANH
MAI
|