L̉NG
THẦY
Bài
nói chuyện tại Cơ quan Phổ thông Giáo lư Đại đạo
9.00
sáng thứ Năm 15.11.2001 (01.10 Tân Tỵ)
LÊ
ANH DŨNG
Rằm tháng 10 Bính Dần (19.11.1926) đạo
Cao Đài chính thức ra mắt nhân sinh trong một
đại lễ tại chùa G̣ Kén (làng Long Thành,
tỉnh Tây Ninh). Con đường vừa mở ra,
tưởng đâu thẳng tắp, bon bon, nào
ngờ chỉ bốn năm sau (1930) đă sớm
xảy ra cảnh tan đàn sẻ nghé giữa lúc
Đạo hăy c̣n phôi thai, non trẻ.
Người ta có thể lấy lư do này
hay nguyên cớ nọ để biện minh, phân
giải cho sự phân hóa ấy; nhưng Thầy
đă vạch cho thấy chung quy chỉ v́ con cái
của Thầy xa rời t́nh thương mà gây nên
nỗi. Và nhiều lần Thầy đă khóc:
Thầy
nh́n trẻ chan ḥa giọt lệ,
Bởi t́nh thương con
để xa con.
Đường đi sửa
méo nên tṛn,
Nhưng chưa thành
đạt th́ con tách rồi.
Kể từ năm 1930,
sự phân hóa bắt đầu diễn ra cho tới
năm 1935. Đó là những trang sử chứa
nhiều nỗi trở trăn, u uất của người
đạo Cao Đài, mà lắm khi những
người con áo trắng thương Thầy
mến Đạo phải tự an ủi ḿnh
bằng lời tiên tri của Thầy khi chuẩn
bị khai Đạo:
Đă
thấy ven mây lố mặt dương,
Cùng
nhau xúm xít dẫn lên đường.
Đạo
cao phó có tay cao độ,
Gần gũi
sau ra vạn dặm trường.
Vạn dặm trường
xa cách ấy nếu chỉ cách trở về không
gian địa lư th́ thâu ngắn đă dễ dàng
rồi. Thương thay, đường đi th́ không
quan san mà quan san lại chính ở ḷng người,
ở ngay cả ḷng riêng của những vị đă
được ân ban và được tôn kính là
bậc Thiên phong hướng đạo!
Năm 1961, nhắc
đến nỗi phân ly trong Đạo, Thầy xót
xa dạy rằng:
Có
trẻ cũng cậy oai áo măo,
Mà con không cỗi tháo phàm tâm.
Con tu mà phải luân trầm,
Thiên phong mà phải lạc
lầm Thiên phong.
Có con cũng ỷ công hành
đạo,
Mà con quên ḿnh tạo
nghiệp đời.
Quen làm giáo chủ một nơi,
Quên giềng mối
lớn quên lời thệ xưa.
Lời minh thệ xưa là lúc nào? Trước
hết, là đại hồng thệ của Thầy.
Khi Thầy hội Công đồng Tam giáo lập
tờ đoan thệ rằng nếu Đạo không
thành th́ Thầy nguyện không trở về ngôi
vị cũ.
Lời đại hồng thệ của
Thầy đă kinh động thiên đ́nh, cho nên chư
phật tiên, thánh thần đều xuống
trần theo Thầy lập Đạo kỳ Ba. Và các
tiền bối Cao Đài ngày xưa hay các hướng
đạo ngày nay cũng là các nguyên nhân tá thế
do đại nguyện của Thầy. Năm 1960 có
lần Thầy nhắc nhở: “Hỡi này các con hướng đạo ôi! Các con
là đại căn linh chủng hạ phàm để
dẫn dắt quần sanh trở về con đường
chơn tu đắc thánh, cùng thay thế Thầy
lập Đạo kỳ Ba.”
Lời đại hồng thệ của
Thầy cũng kinh động cơi âm tà cho nên
Quỷ vương đă vội vàng kéo rốc
kiện tướng tinh binh của tam thập lục
động, rần rần rộ rộ vào cơi
thế trần để giựt giành với
Thầy trong thời hạ nguơn mạt kiếp.
Một cuộc đấu tranh quyết liệt và dĩ
nhiên không tránh khỏi có những đại căn
linh chủng sa chân vào mê hồn trận của
Quỷ vương, rốt cuộc không hoàn thành
đại nguyện.
Người đời sẽ hỏi:
Thầy là đấng Chí tôn Thượng đế,
quyền năng vô biên mà tại sao Thầy không che
chắn, không đỡ nâng cho các con? Thực ra, như
Thầy từng nhiều lần giảng giải,
Thầy để Quỷ vương thử thách con
Thầy th́ mới đúng lẽ công b́nh của
Tạo hóa.
Năm 1961, Thầy dạy: “… nếu cơ Đạo không trải qua
những giờ phút đen tối như hiện t́nh,
th́ ngày thành đạo, con nào cũng là trang quả
cảm hy sinh cả, như vậy sao gọi có
luật công b́nh.”
Năm 1963, Thầy nhắc lại: “Cao Đài Đại đạo cũng như người
tín đồ, Thầy chỉ đánh giá lúc ngặt
nghèo, chớ b́nh thường th́ chẳng biết ai
là người tâm đạo, ai là kẻ có ḷng.”
Thế nên, khi con cái của Thầy quá
đỗi ṃn mỏi trước những màn
khảo thí thiên h́nh vạn trạng, Thầy cũng
không v́ thương con mà bồng ẵm đàn con.
Thầy đành nén ḷng, dơi mắt nh́n con Thầy
tự hoàn thiện ḿnh trong trường tranh đấu.
Có lần Thầy an ủi, khuyến nhủ, vỗ
về:
Cơ
lừa lọc tṛ tiên buổi chót,
Bước quả công ḅn mót
nghe con.
Biết rằng nhiều
trẻ mỏi ṃn,
Đó là
giờ cuối thử con trọn ḷng.
Thầy dạy sao th́ biết vậy, nhưng
nhiều khi người tín đồ chứng
kiến lắm kẻ cũng khăn đen áo
trắng, tay biết bắt ấn Tư, miệng
biết niệm danh Thầy mà lại giỏi kết
bè kết cánh để làm điều nghịch
đạo th́ hỏi sao ḷng trần không phẫn
nộ?
Có lần, chắc v́ nộ khí xung thiên
đă động đến Thầy nên Thầy
phải hạ trần khuyên lơn lần nữa: “Này
các con! Không phải Thầy không đủ quyền
pháp để chuyển xoay máy Tạo, nhưng
Thầy quá ḷng từ bi để các con lập công
bồi đức mà trở về ngôi vị.
Nếu Thầy dùng quyền lực th́ các con sẽ
trở thành tro bụi.”
Những tưởng chỉ có người
phàm mới uất ức, mới thầm xin Thầy
“ngó” một cái để ai đó “tiêu” luôn
cho rồi, nào ngờ các vị thần theo phù
hộ người hành đạo, nhiều khi
thấy ai đó làm cản bước tiến
của Đạo, cũng nóng ruột, cũng vào
quỳ trước Bạch Ngọc Kinh, lạy
Thầy nài xin ra tay trừng phạt.
Giữa năm 1961, Thầy tiết
lộ một trường hợp như vậy.
Thần Ngũ lôi vào dâng sớ xin trị tội ai
đó, và Thầy đă phải cản không cho
thần Ngũ lôi xuống tay giáng sấm sét đánh
tiêu tan kẻ ấy:
Vừa trước
bệ chương đài Bạch Ngọc,
Ngũ lôi thần vào đọc
sớ qua.
Xin ra oai trị ḷng tà,
Đặng ǵn mối Đạo
kỳ Ba vẹn tuyền.
Nếu như vậy con
hiền chịu khổ,
Bởi từ bi nhiều
chỗ nguyên nhân.
Để con dẫn dắt lúc
cần,
Nếu Thầy ra
lịnh Lôi thần c̣n chi.
Ở thế gian, đứa con ngu
dại, ngỗ nghịch làm tan ḷng nát dạ mẹ
cha thường cũng chính là đứa con mà
mẹ cha thương xót đớn đau hơn
cả. Lấy ḷng cha mẹ huyết nhục trần
gian mà suy th́ ắt hiểu ḷng Thầy là Cha
Trời đối với các linh căn đang
trầm luân, lầm lạc.
Ở thế gian, đâu thiếu chi
những ông cha, bà mẹ chỉ v́ con bụi đời
đi hoang mà cha mẹ phải liều ḿnh lùng
sục khắp các chốn tệ nạn xă hội
để mong t́m thấy con, lôi kéo con về nhà,
bất chấp những nơi nhơ nhuốc,
khổ ải, hiểm nguy. Th́ Thầy cũng
vậy. Thấy con cái lầm lỗi, mắc kế
mỵ tà, làm cho nền Đạo rẽ chia,
Thầy đă bao phen giáng thế, vào chốn
trần ai ô trược để cứu vớt các
con.
V́ sợ rằng phạm thượng,
sợ là thất kính, chúng ta không dám nói Thượng
đế đọa trần, nhưng chính Thầy
đă thổ lộ v́ quá thương con mà Thầy
phải đọa trần:
Con
biết chăng gan đồng Thầy bể,
Con biết chăng
Ngọc đế đọa trần...
Thầy chịu “lăn
lóc với đời”
v́ tin tưởng các con dù sao cũng là linh căn,
sẽ có thể biết xét suy nghĩ lại:
Tâm
trần dù có mê si,
Cũng c̣n chút ít lương
tri của Thầy.
V́ tin con và thương con như thế
nên nhiều phen Thầy nhắc lại lời
hồng thệ của Thầy khi mở Đạo,
để khơi dậy điểm thiên lương
sót lại của đàn con, để mong con hồi
tâm hướng thiện.
Thầy
sao măi miệt mài trần thế,
Bởi v́ câu hồng thệ
của Thầy,
Trước Ṭa Tam giáo c̣n
đây,
Không thành tan nát thân
Thầy c̣n chi!
Một bực Đại la Thiên đế
mà phải miệt mài trần thế! Lời dạy của
Thầy hoàn toàn không hề là mỹ từ bóng
bảy mà chính là sự thật xót xa!
Lời Thầy dạy từ thuở
mở Đạo cho tới nay, đă cạn bao ḍng
mực trên muôn vạn trang thánh ngôn, thánh giáo.
Ngọn linh cơ cũng đă ṃn với thời
gian và nhịp thăng trầm Đại đạo.
Năm 1964, lời Thầy dạy nghe mà ngậm ngùi
khôn xiết:
Bút đă
ṃn với ḍng kinh điển,
Mực cạn dần bao quyển thánh ngôn...
Thử hỏi bút nào không ṃn, mực nào
không cạn, khi mà:
Thầy v́
con sớm chiều hạ thế,
Thầy v́ con chẳng nệ đêm khuya
...
Những lúc con cái trĩu nặng tâm tư
u uất, hay quá đỗi đớn đau v́ t́nh
đời cảnh đạo, Thầy ban bố
thật nhiều lời nhủ khuyên, an ủi.
Một lần nọ Thầy dạy:
“Hôm
nay Thầy đến với các con để vỗ
về an ủi cùng chan rưới điển lành
cho các con, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, lớn
bé, nguyên nhân cùng hóa nhân, để các con hấp
thụ linh điển đó mà b́nh tâm sáng suốt,
chọn một con đường đi, khỏi lo chông
gai hiểm trở.
“Vậy
th́ nơi đây, các con hăy trút tất cả
những tâm tư, những buồn tủi, những
giận hờn, những đau khổ, để
Thầy an ủi, vỗ về, xoa dịu nỗi tâm
tư. Ḷng Tạo hóa từ bi bao trùm vạn vật,
mở lượng khoan dung, dang tay từ ái, đón rước
tất cả sanh linh. Đứa phải, đứa
trái cũng là con cái của Thầy.
“Khóc
đi các con! Hăy khóc đi để Thầy ban
lời khuyến dỗ.”
Mỗi lần về đàn, cách
Thầy xưng hô với các con cũng rất đặc
biệt. Bao giờ cũng là “Thầy
các con! Thầy mừng các con nam nữ!” C̣n
nhớ, cuối năm 1963, có một lần, Thầy
về Huờn Cung Đàn, lời Thầy sao mà b́nh
dị, sao mà thương yêu đến mức như
vầy: “Thầy đây.
Thầy mừng các con.”
Chúng ta cứ thử nhẩm lại
đi: “Thầy đây. Thầy mừng các con.” Nghe sao
mà chứa chan, sao mà thân thiết! Một ông
Trời, một vị Ngọc hoàng Thượng
đế, một đấng Chúa tể càn khôn, nhưng
Ngài đă đến với chúng ta, và đến như
vậy đó!
·
Trở lại với
chuyện Đạo phân hóa từ 1930 đến
1935. Trên bàn tay c̣n có ngón dài ngón vắn, con trong
một gia đ́nh dẫu có kẻ bướng
bỉnh ngang tàng vẫn c̣n người ngoan hiền
nhu thuận. Cho nên, đau ḷng v́ cảnh huống
đồng đạo chia phân, lần lượt
đă có những người con hiếu thảo
của Thầy nối tiếp nhau t́m cách hàn gắn
các chi phái, bảo toàn cho Đạo trước
những âm mưu chia rẽ Cao Đài để ḥng
triệt tiêu Cao Đài.
Nhắc đến những người
con trung hiếu, đầu năm 1965 Thầy dạy:
Cũng
có con nặng oằn tâm đạo,
Cũng có
con trọng bảo danh Thầy,
Đứa
th́ củng cố đó đây,
Đứa
th́ kêu gọi ngày ngày quy nguyên.
Nói
về con đường quy nguyên của Đạo,
trong khoảng 27 năm, từ 1936 tới 1962, có
thể lược kể vắn tắt như sau:
1936: Cao Đài
Đại đạo Liên đoàn, không lâu sau
đó Liên đoàn đổi tên thành Liên
ḥa Tổng hội.
1945: Cao Đài
Hiệp nhứt 11 phái.
1947: Hội
thánh Duy nhứt 12 phái Cao Đài Thống nhứt.
1951: Cơ
quan Cao Đài Quy nhứt.
1952: Cơ quan Cao Đài Quy
nhứt đổi tên thành
Cơ quan Cao Đài Thống nhứt.
1956: Cơ quan Cao Đài
Thống nhứt đổi tên thành
Ban Vận động Cao Đài Thống nhứt.
1962: Ban
Phổ thông Giáo lư ra đời với định
hướng dùng con đường phổ thông giáo
lư tác động cho mục tiêu quy nguyên, thống
nhứt nền Đạo.
Điểm lại danh xưng
các tổ chức từ 1936 tới 1962, những thay
đổi liên tiếp như thế chứng tỏ
nhân tâm đă bao lần biến dịch không
ngừng.
Sau này, đầu những năm 60,
Thầy tiết lộ cũng v́ thương con mà
lắm phen Thầy đă ch́u theo nhân tâm biến
dịch:
“Thầy
nhắc lại lời Thầy nói khi xưa là con nào
muốn ăn cơm, Thầy cho cơm; con nào
muốn ăn bánh, Thầy cho bánh. Lúc nào Thầy cũng
lặng lẽ nh́n các con với luồng Thiên nhăn
đầy nét yêu thương tŕu mến.”
Người xưa nói: Dụng
nhân như dụng mộc. Thầy cũng vậy.
Ḷng kẻ thế gian khi như tấm ván cong vênh, lúc
như khúc cây chỗ lành lặn, chỗ mọt sâu...
Không nỡ bỏ sót một con nào, Thầy lại tùy
theo trường hợp mà chuyển hướng
để cho các con của Thầy c̣n có dịp
lập đức lập công với Đạo:
V́ tư
dục mọi bề chi phái,
Bởi ḷng phàm nhơn
loại đấu tranh.
Thầy đâu nỡ bỏ
con đành,
Tùy phương chuyển hướng
lập thành bảng tiên.
Dụng quyền pháp thiêng liêng
vận động,
Cho mị tà mất bóng tan h́nh,
Để con về nẻo
quang minh,
Khỏi cơn ác
mộng giữ ǵn lư chơn.
Ôn học thánh giáo của
Thầy, khi nh́n lại những biến đổi liên
tục ở h́nh danh sắc tướng của các
nỗ lực nhằm quy nguyên thống nhứt Cao
Đài từ năm 1936 tới 1962, chúng ta hiểu
trong đó có sự chuyển hướng xoay
chiều của Thầy, mà những chuyển xoay
ấy được Thầy ví như giọng đàn
thay cung đổi nhịp:
Thương
con Thầy đổi giọng đờn,
Nhặt khoan để
trẻ hưởng ơn huệ hồng.
·
V́ nhiều lư do khách quan và
chủ quan, con đường Đại đạo
mở ra trên quê hương Việt Nam đă sớm
là con đường không suôn sẻ và bằng
phẳng. Cuối năm 1960, sau những nỗ
lực hàn gắn phái chi mà đích thành công vẫn
chưa nằm trong tầm tay với, Thầy đến
với các con và than rằng:
“Đă
từ lâu, Thầy dùng mọi h́nh thức cũng như
diệu huyền để dạy dỗ các con, nhưng
rồi cũng chỉ trôi qua theo thời gian biến
chuyển. Ḷng con cũng vẫn măi rạt rào trước
ngọn giáo chia phân. Đến giờ phút này,
Thầy biết rằng có nhiều con đă chồn
chân trên bước đường chia rẽ. Dù
thế, nhưng cũng chưa được
trọn ḷng ḥa hiệp là bởi ḷng của các con
đó chưa quên ḿnh cho Đại đạo.
Thầy lấy làm đau xót!”
Quả thực, những tổng kết
của Thầy vào đầu thập niên 60 là
những ḍng thánh giáo chưa đượm nét tươi
vui bởi v́ Thầy nhận thấy vẫn chưa
hết người “Miệng
rằng thống nhứt bụng mà c̣n chia.”
và đó chính là một chướng ngại ngăn
cản tiến tŕnh quy nguyên thống nhứt nền
Đạo.
Năm 1961, đạo Cao Đài 36
tuổi, lời Thầy càng thúc giục.
Tháng 2 Thầy dạy:
Ba sáu năm
ngoài trong chia xẻ,
Giờ nay đây con trẻ
phải quy.
Đồng nhau dự hội
khoa thi,
Dưới trên tương
hiệp chớ ly tách Thầy.
Tháng 7 cùng năm Thầy liền
nhắc:
Đây
Thầy nhắc cái ngày khai Đạo,
Hỡi con ôi! ba sáu năm
rồi!
Nhớ chăng Thầy
dạy những lời,
Đạo mau thống
nhứt kịp đời Thượng nguơn.
Vẳng âm thanh giọng đờn
thống nhứt,
Làn du dương tiếng
nhạc quy nguyên.
Dù cho cách trở sơn xuyên,
Ḷng
Thầy dạ trẻ tư riêng sao đành.
V́ sao càng lúc tiến tŕnh quy nguyên Đại
đạo càng trở nên thúc bách? Đây cũng là
lời Thầy phân giải: “Các con nên hiểu rành hai chữ quy nguyên. Quy nguyên
Đại đạo để hoàn thành mục phiêu
độ thế, để hoằng pháp năm châu,
nào phải nơi chật hẹp ở cơi Nam bang này.”
Từ khi ra đời vào năm 1952 tính
đến năm 1961, Cơ quan Cao Đài Thống
nhứt đă trải qua một thập niên làm tác
nhân chủ chốt cho công cuộc quy nguyên Đại
đạo. Thế nhưng đến cuối năm
1961 này, Thầy lại dạy như sau:
“Hiện
giờ Thầy nói đến các con trong sứ
mạng của Cao Đài Thống nhứt. (...)
Trải qua bao năm tháng, giờ Thầy thử
hỏi các con đă làm những ǵ đối
với Đạo và các con hiểu được
Cao Đài Thống nhứt chăng?
“Các
con ôi! Thầy nhận thấy các con là những
đứa con trí thức, có bản năng nên
Thầy mới trao cho các con một nhiệm vụ dưới
thánh bảng Cao Đài Thống nhứt. Các con đă
cùng nhau hy sinh cho Đạo trong bao năm trường,
nhưng nếu t́nh cờ đàn em các con đứng
lên hỏi các con sẽ đưa chúng nó về
đâu? đạt thành nguyện vọng ǵ? th́ các
con mới trả lời sao đây?
“Chẳng
lẽ các con đưa tay lên chỉ một phương
trời vô định hay các con lại mượn
đồng loan nhờ Thiêng liêng thi phú để giáo
dỗ nhơn sanh? Nhơn sanh chỉ nghe suông rồi
các con tự an ủi ḿnh bằng cách hănh diện là
được Thiêng liêng kêu gọi.”
Căn cứ theo lời dạy trên
của Thầy, là lớp người sau t́m hiểu
hành trạng của lớp người trước,
chúng ta cảm nhận rằng hoạt động
của Cơ quan Cao Đài Thống nhứt dường
như c̣n thiếu một yếu tố hiệu
quả thiết thực để hướng
dẫn tinh thần đồng đạo.
Vậy là một lần nữa Thầy
lại đổi giọng đờn khi chuyển hướng
lập ra Ban Phổ thông
Giáo lư vào năm 1962 với chủ đích dùng
con đường phổ thông giáo lư, lấy phương
tiện thuyết minh giáo lư để tác động
cho mục tiêu quy nguyên, thống nhứt nền Đạo.
Năm 1962 Thầy giải rơ lư do
chuyển hướng như sau:
Chuyển
hướng để đời sang cơi thiện,
Phổ thông cho đạo
sớm quy nguyên.
Công phu dày dạn từ năm
ấy,
Chỉ một
kỳ nầy phật, thánh, tiên.
Đă
đến lúc thuyết minh giáo lư,
Và đúng kỳ cơ
chỉ quy nguyên,
Nên Thầy cùng phật thánh
tiên,
Ban hành sắc
lịnh giáo truyền phổ thông.
Đạo
nay đă đến phần giáo lư,
Để
phô bày ư chỉ, mục tiêu.
Đạo
cần phải biết luật điều,
Sách
kinh phổ hóa được nhiều con xem.
Giờ con phải tâm bền
học hỏi,
Kinh sách xem mở cơi ḷng con.
Gia công nghiên cứu cho tṛn,
Hiệp nhau để đặng
mót ḅn quả công.
Đại đồng lập
phổ thông giáo lư,
Chuyển hườn nguyên tôn
chỉ Tam kỳ;
Liên quan huynh đệ
ngại chi,
Ḥa nhau hệ
thống tường tri đủ điều.
Mặc dù Thầy đă dạy rất rơ
về yêu cầu phải chuyển hướng sang
phổ thông giáo lư, nhưng trong nội bộ Cao
Đài Thống nhứt bấy giờ lại có thành
phần không đồng quan điểm về sự
chuyển hướng này.
T́nh thế đă buộc những người
vâng tùng thánh ư của Thầy phải tách ra
khỏi Cao Đài Thống nhứt, quy tụ về
Thiên Lư Đàn ở khu Ḥa Hưng để chờ
lệnh Thầy. Đó là năm 1963, cũng là năm
đạo Cao Đài 38 tuổi, với lời
tổng kết không vui của Thầy: “Ba
mươi tám năm trường lặng lẽ trôi
qua, thử hỏi có một kết quả nào chung
cho nền Đại đạo?”
Đối với những người
con tuân theo sự chuyển hướng đă định
từ năm 1962, th́ sang đầu năm 1964,
Thầy dạy: “Thầy nhắc cho các con nhớ: Phổ thông giáo
lư là một cơ quan truyền bá mục đích
Đại đạo, mà các con là những sứ
mạng trung kiên của Thầy, của Tam giáo.”
Năm 1964 có thể coi là năm
chuẩn bị rốt ráo để Thầy quy
tụ những hạt nhân nồng cốt, trung kiên
tạo thành lớp người tiền phong cho
một tổ chức mới là Văn
pḥng Phổ thông Giáo lư, sẽ khai mạc vào ngày
rằm tháng Giêng Ất Tỵ (16.02.1965), trùng với
ngày Thiên quan Tứ phước. Nửa tháng trước
ngày khai mạc Văn pḥng, Thầy ân cần trao các
con những lời kư thác:
Thầy
sắc ban Văn pḥng Giáo lư,
Cho con nào
có chí hy sinh,
V́ chánh
đạo, dám quên ḿnh,
Đem tài
phục vụ nhơn sinh buổi này.
Thầy
không mượn lâu đài chùa thất,
Mượn
ḷng con chơn thật mà thôi.
Không
chức sắc, không vị ngôi,
Mà c̣n
khổ cực, c̣n hồi gian nan.
Trước
liệu lượng, sau toan hứa hẹn,
Lănh
lịnh Thầy, đừng thẹn với Thầy.
Thủy
triều vận tải Đông Tây,
Danh con được
rạng, Đạo Thầy hoằng dương.
Văn pḥng Phổ thông Giáo lư năm xưa
chính là tiền thân của Cơ
quan Phổ thông Giáo lư hôm nay, một Cơ quan
được Thầy cho biết là bộ máy sau cùng
của Đạo.
Ôn
lại quăng đường 40 năm từ khi
Thầy mở Đạo cho đến khi Thầy thành
lập Cơ quan Phổ thông Giáo lư (1926-1965), chúng ta
thấy Thầy đă phải biết bao lần
uốn nắn cho con đường quanh co trở thành
thẳng tắp, và cũng đă nhiều phen
Thầy phải đau ḷng than thở rằng lịch
sử ghi chẳng nên ḍng.
Nhận
thức như vậy để thấy rằng v́
sao những lời Thầy gởi gấm Cơ quan,
gởi gấm bộ máy sau cùng của Đạo,
vốn đă rất thiết tha càng thêm bội
phần tha thiết:
Nhiệm
mầu lư đạo hỡi con ôi!
Dụng
đức hy sinh để đắp bồi.
Chẳng
nệ thân phàm không vị cả,
Đừng
màng danh tục chẳng cao ngôi.
Nhịp
cầu giáo lư xây non nước,
Guồng
máy thiên nhiên dụng đạo đời.
Cứu cánh
nguyên nhân kỳ mạt hạ,
Vững vàng lèo lái
giữa ḍng khơi.
Là bộ máy sau cùng của Đạo, Cơ
quan Phổ thông Giáo lư có điều kiện nh́n
lại suốt cả bước đường
đă qua của lớp lớp tiền nhân buổi
trước. Những cái đă được và
những cái chưa được của người
xưa đều là tấm gương sáng và là bài
học hay để Cơ quan chiêm nghiệm mà ư
thức bảo tồn và kiên tŕ thực thi
đường lối do Thầy chỉ dạy
từ ngày đầu thành lập:
“Các
con sẽ là đoàn người hy sinh, không chức
vị, chẳng oai quyền, chẳng danh lợi, mà
phải làm đoàn người xung phong phá núi, đốn
rừng, dẹp những chướng ngại trên
đường Thiên đạo, để khách
lữ hành Tam giáo chung bước sau này trên
những lối đi bằng phẳng đó.”
Đến nay, Đạo
sắp bước sang năm thứ 77, Cơ quan cũng
sắp đầy 37 tuổi. Con đường
bằng phẳng mà Cơ quan sẽ mở ra cho khách
lữ hành Tam giáo tuy chưa h́nh thành, nhưng
thời gian mấy mươi năm qua, với
Hội trường Thuyết minh Giáo lư của Cơ
quan, không chỉ là tín đồ Cao Đài mà c̣n có
đạo tâm các nơi hội hiệp, quy tụ.
Nhờ đó chúng ta ngày một thông cảm nhau hơn,
gần gũi nhau hơn khi kết liên với nhau
bằng sợi dây giáo lư, đúng như ḷng
Thầy mong muốn:
Gặp
gỡ nhau trên ḍng giáo lư,
Nh́n
với nhau tôn chỉ Cao Đài,
Không c̣n
chia biệt Đông Tây,
Không c̣n
phái nọ, chi này, Phật, Tiên...
Đây là
đường quy nguyên Tam giáo,
Cũng là
giềng trọng bảo nước non,
Là mong
cứu kiếp sống c̣n,
Cho toàn lê thứ
trong cơn hăi hùng.
·
Ôn lại khái quát những nguyên nhân
lịch sử đă dẫn tới sự ra đời
của Cơ quan Phổ thông Giáo lư, chúng ta thêm
một lần cảm nhận sâu sắc ḷng thương
bao la không bến bờ của Thầy đối
với chúng ta, và ư thức rơ rằng Thầy
lập ra Cơ quan cũng là trao cho chúng ta một cơ
hội chót để lập công bồi đức
trong kỳ hạ nguơn hầu có thể trở
về ngôi xưa vị cũ.
Trên con đường phổ thông
phổ truyền giáo lư, xin nguyện cầu cho
mọi bước chân đi đều vững vàng,
đúng hướng, đúng như ḷng Thầy
vẫn hằng mong muốn:
Thầy
muốn con thơ bước thẳng đường,
Hầu
đem chánh pháp Đạo hoằng dương,
Trong khi ma
quỷ bày trăm kế,
Giữa lúc
yêu tinh đón vạn phương.
Hủy
kiếp thiêu thân v́ ánh sáng,
Hoại
danh hào kiệt bởi quan trường.
Tắt
quanh, mau chậm, con ơi khéo,
Đời
đạo hai vai rán liệu lường.
LÊ
ANH DŨNG
(Phú
Nhuận, 15.11.2001)
|