DẤU
CHÂN PHÍA TRƯỚC
Lê
Anh Dũng
Audio - Nghe bài "Dấu chân phía
trước"
...
Tháng 11.1926, khi các môn
đồ đầu tiên của đức Thượng-Đế
vâng lệnh Thầy công khai mối đạo
Trời ở chùa G̣ Kén (Tây Ninh), th́ đại
lễ ra mắt nhân sinh đă kéo dài luôn ba tháng,
đă làm nên một mùa Khai minh, làm thành sự
kiện lịch sử hy hữu.
Đạo khai th́ tà khởi. Từ buổi
ấy, thế lực cường quyền ngoại
bang đă không hề chùn tay đàn áp hàng hàng
lớp lớp những người con áo trắng
của đức Cao Đài v́ họ muốn mau chóng
dập tắt ánh lửa tin yêu vừa bừng sáng
trong hàng triệu tấm ḷng chứa chan hy vọng
của những người dân mất nước
đang sống trong đêm dài nô lệ dưới
ách thuộc địa thực dân.
Đức Thượng Trung Nhựt và đức
Ngọc Lịch Nguyệt có lần hồi tưởng:
“Chúng Tiên huynh đă trải qua biết bao lúc thăng
trầm bĩ thới, trở ngại khó khăn, vào
khám ra tù, lưu vong đất khách, hy sinh để
tiếp nhận sứ mạng lập nền Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ từ năm Bính Dần
cho đến ngày cởi bỏ xác phàm, rũ
sạch những oan khiên nghiệp chướng.”
Đức Tiền bối Lê Kim Tỵ cũng
viết vào sử Đạo một lời làm
chứng:
Một
tay, một cánh chống Lang Sa,
Họ
quyết bóp tan mối Đạo nhà,
Sống
thác thường t́nh đâu có nệ,
Cho
người biết được khí hùng ta.
Những Bà Rá, Tà Lài lẻ loi giữa rừng
sâu nước độc, những Côn Đảo, Mă
Đảo cô lập giữa bốn bề biển
cả mênh mông, và c̣n biết bao cái tên rờn
rợn của những chốn địa ngục
trần gian khác nữa, tất cả đă là
những chiếc ḷ bát quái nấu nung, thử thách
tấm ḷng can trường thiết thạch của
người đạo Cao Đài buổi trước.
Những người áo trắng v́ thế đă hy
sinh, cho ánh vàng mười rực rỡ trong ngọn
lửa hồng:
Xác
phàm tuy mất, khí thiêng c̣n,
Nỗi
Đạo, nỗi đời, nỗi nước non.
Có
gặp lửa hồng vàng biết giá,
Tử
sanh cũng giữ Đạo vuông tṛn.
Đó chính là hùng khí kiêu dũng của
tiền nhân, mà tập thể Hội đồng
Tiền bối Đại-Đạo Tam-Kỳ
Phổ-Độ trong dịp trở về đă cùng
trải ḷng qua ngọn linh cơ:
Phận bé nhỏ Đạo nhà nắm
giữ,
Vai nặng oằn hai chữ nghĩa nhân,
Có Trời, có nước, có dân,
Dân
nguy, nước loạn, xả thân giúp đời.
Đó chính là tinh thần bất khuất
của đức Cao Triều Phát:
Dù thế cuộc sắp bày dâu bể,
Dù nước nhà trong thế loạn ly,
Nghiêng vai sứ mạng Tam-Kỳ,
Trải
thân hướng đạo bù ch́ vạn sinh.
Ngày nay, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 2
(quận 1, Saigon) hăy c̣n rất nhiều
chồng hồ sơ dày cộm làm chứng cho
những biện pháp, thủ đoạn mà Toàn
quyền Đông Dương, thống đốc Nam
Kỳ, Khâm sứ Trung Kỳ cùng với những
thuộc cấp thừa hành các tỉnh, quận...
đă trăm phương ngàn kế bày ra để
ḥng xóa sổ đạo Cao Đài.
Tuy nhiên, đời muốn vậy mà dễ nào
được vậy. Đức Thất thánh Thượng
Hoài Thanh (Nguyễn Tấn Hoài) khi ôn lại sử
Đạo đă giúp thế nhân lưu ư một bài
học lịch sử thiên thu: “Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ trải qua bao nhiêu lần
thăng trầm bĩ thái, làm cho tất cả
những người hành đạo, tâm đạo,
học đạo, đều chịu những
nỗi gian nguy cơ cực, kẻ chết chóc, người
lao tù. Nhưng thời cơ đă đến, Thiên lư
tự nhiên, dầu ai toan bẻ nạng chống
trời, hay có kẻ mong dời non lấp biển, cũng
chẳng làm sao được.”
Đă đành chẳng lịch sử nào mà
chẳng nặng thương đau và nhiều
mất mát, nhưng đau ḷng thay, những sự
kiện sử Đạo bi tráng ấy đă ảnh
hưởng quá đỗi tới tiến tŕnh
nền Đạo mà hậu quả di hại hiển
nhiên không chỉ sớm chiều! Những thuyền
trưởng tài trí của nền Đạo
buổi sơ khai vừa phải đối phó
với băo táp cuồng phong, vừa phải lo
vững tay lèo lái con thuyền Đạo hướng
về mục tiêu đă định, cưỡi lên
muôn ngọn sóng dữ dằn trong lúc ḱnh ngư
thủy quái vẫn không thôi đeo bám chực
chờ. Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc
hồi tưởng: “Cơ Đạo lúc bấy
giờ luôn luôn ứng phó xoay trở với bao nhiêu
áp lực bên ngoài đưa đến. Dầu tài cán
đến bực nào cũng không làm sao tiến hành
cho kịp lúc” .
Hoàn cảnh lịch sử ấy đă kềm
hăm nền Đạo đang trên đà tiến
triển vượt bực từ buổi sơ khai.
Lớp người khai sơn phá thạch theo
thời gian vừa bị tuổi tác vừa bị
ng hịch cảnh bào ṃn thân xác, tiêu hao sức
lực. Đức Quảng Đức Chơn Tiên
(Huệ Lương Trần Văn Quế) ngậm ngùi
tâm sự: “Nhân đây Tệ huynh xin bày tỏ tâm
t́nh đạo sự để chư hiền
hữu được thấu rơ. Tệ huynh v́
sứ mạng, v́ nguyện lực, cũng v́
nghiệp căn buổi sinh thời, nhục thể
trải bao phong trần lao lư, nên cuộc hành tŕnh không
c̣n đủ sức và tiêu biểu cho người hướng
đạo Thiên ân trên bước đường khó
khăn tận độ.”
Dù muốn hay không muốn, luật vô thường
vẫn là luật vô thường. Từng vị
tiền bối lần lượt nối bước
ra đi, ôm trong tâm khảm một nỗi hận khôn
nguôi bởi v́ đạo sự c̣n ngổn ngang,
sứ mạng c̣n dang dở, mà hoài băo cao cả cũng
như kế hoạch vận trù mai hậu đều
chưa kịp chuyển giao cho lớp người sau
tiếp nối. Nỗi hận ḷng đó, đức
Hộ pháp Phạm Công Tắc đă hơn một
lần thổ lộ:
“Tiếc v́ sự nghiệp Đạo chưa
thành, tuổi đời chồng chất, tâm sự
và kế hoạch cũng chưa kịp trao hết
cho lớp người tiếp nối nên hậu
quả đang để lại cho đàn em gánh
lấy” .
“Có những điều chưa tiện nói
cho Hội Thánh được biết, việc
ấy măi đến này nay cũng chưa được
cùng ai tỏ bày tâm sự, mà đó là điều
tai hại vô cùng. Đó là mầm trở ngại cho
bước tiến của Đạo ngày nay.”
Khi đức Phạm Hộ pháp dạy rằng
“... đó là điều tai hại vô cùng. Đó
là mầm trở ngại cho bước tiến
của Đạo ngày nay”. Th́ chính những
lời lẽ nặng tŕu trĩu ấy đă
khiến cho người sau không khỏi xót xa tấc
dạ chia xẻ cùng người xưa, bởi
lẽ có đến mức như vậy th́ bậc
Thiên ân sứ mạng thay Trời hành hóa mới
phải đành đoạn thở than “con Tạo
trớ trêu” chẳng khác chi thế tục đời
thường:
Những
việc từ xưa đă sắp bày,
Nhưng
chưa tiện nói để ai hay,
Trớ
trêu con Tạo chia đôi ngă,
Đạo
nghiệp linh đinh đến nỗi này.
Nhắc đến công nghiệp tiền nhân, dù
muôn lời vạn tiếng cũng không làm sao
diễn bày cho rốt ráo. Quả thực, đúng như
đức Bảo pháp Chơn quân Huỳnh Chơn
đă cảm thán:
Ôi nhắc đến mà ḷng tha thiết,
Bậc Tiền khai tâm huyết trải trang,
Biết bao gian khổ trần hoàn,
Điểm
tô xây đắp Việt bang Cao Đài.
Thọ hưởng sự nghiệp của người
xưa để lại, người đạo Cao
Đài ngày nay không thể không nhớ đến
sử Đạo, không thể không thông thuộc
sử Đạo, v́ chính sử Đạo cũng là
một phần bất ly của lịch sử dân
tộc suốt một thế kỷ nhà tan nước
mất. Hơn thế nữa, sử Đạo là
sợi dây thiêng liêng cố kết truyền
thống và hiện đại, là sinh lực đạo
mạch chảy từ người xưa cho đến
tận người sau. Đức Cao Triều Phát
dạy:
“Ḍng đời cứ triền miên như ḍng
nước chảy. Kẻ trước đi qua người
sau kế tiếp, người sau nữa đang đợi
chờ, cứ măi như thế theo ḍng lịch
sử của thời gian, c̣n in lại những ǵ
cao cả cho đời thương tưởng và
nhắc nhở.”
“Tiên huynh đă đi qua, chiếc bóng đă
nằm xuống, nhưng tinh thần của Tiên huynh
măi măi theo gót chân của các em mà đi vào ánh sáng
Đạo, vào bóng tối của trần gian.”
Sử Đạo c̣n là bài học kinh nghiệm
vô giá cho lớp người sau đang tiến bước
đi lên, noi theo dấu chân người trước.
Ư thức như thế, lớp người hôm nay
lắng ḷng học kỹ từng chữ từng
lời trong từng trang thánh giáo thánh ngôn ắt
sẽ lănh hội v́ sao đan xen với những ḍng
giáo lư Cao Đài vẫn là những ḍng sử thi Cao
Đài được viết từ ngọn linh cơ
giữa bao canh trường tịch mịch.
Có một lần đức Bạch Liên Tiên trưởng
(Phan Thanh) đă lưu ư điều đó: “Nh́n
lại viễn đồ đă qua, trên bước
đường hành đạo của chư sứ
đồ Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ,
dầu rằng trên vạn nẻo đường nhân
thế, tuy lắm cảnh thăng trầm buồn
vui, hiệp tan tan hiệp, may rủi rủi may,
tất cả sự kiện ấy đều là
những kinh nghiệm sống, những bài học quư
giá.”
Đức Cao Triều Trực cũng dạy: “Trong
t́nh bạn đạo, gặp lại nhau không
thể không ôn lại những ǵ diễn tiến
từ dĩ văng đến hiện tại, những
nỗi buồn vui bại thành trên bước
đường hành đạo, để giúp đỡ
cho nhau những kinh nghiệm sống. Âu đó cũng
là bổn phận của người đi trước.
Có chỉ bảo cho nhau để lớp người
sau biết những ǵ cần phải làm, những ǵ
cần phải tránh, để làm vốn liếng
thực hiện đại chí của bực hướng
đạo, làm sao cho đúng với tôn chỉ khai
Đạo mà đức Chí-Tôn đă định,
để hoàn thành sứ mạng thế Thiên hành hóa
và cũng để khỏi ân hận nuối
tiếc như lớp người đă đi qua
trong quá khứ.”
Lại nói sang ư thức chép sử. Lớp
hậu bối đàn em làm sao tránh khỏi những
lúc trở trăn, những hồi ray rứt.
Ngọn bút nào có lương tri th́ cũng phải
bao phen ngập ngừng mà nét mực v́ thế nên
chẳng được trọn ḍng, bởi một
lẽ giản dị rằng với tấm ḷng tri ân
kính ngưỡng lớp tiền nhân, sự thận
trọng buộc ḿnh vốn dĩ đă dặt dè
lại càng thêm muôn phần dè dặt.
Đức Giáo tông Vô vi Lư Thái Bạch dạy
rằng: “Sử phải thật, không thiên
kiến tô hồng, không chủ quan tùy cảm, không
định kiến khen chê.” .
Phương châm ấy quả là khuôn vàng thước
ngọc nhưng muốn làm được thế
đ̣i hỏi người chép sử phải vượt
qua cái ta bản ngă của ḿnh. Thế nên, khi các
đấng Tiền khai Đại-Đạo trở
về giúp lớp người sau bổ sung những
ḍng sử thi Đại-Đạo, th́ không ai khác hơn
là chính các ngài đă nêu gương sáng cho đàn
em chép sử, mà đức Hộ pháp Phạm Công
Tắc là một tiêu biểu. Đức Phạm
Hộ pháp dạy:
“Công quả khai Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ có thể nói là Bần
đạo đă đóng góp được hai
phần ba công quả ấy. Nhưng buồn v́ nước
nhà chủ quyền không được bảo đảm,
kể từ thuở khai Đạo các đàn anh cũng
v́ lẽ ấy bị chi phối rất nhiều.
Từ chỗ vị kỷ, vị danh, vị lợi,
cũng như tự ái, tự đại, tự tôn,
nên đă gây ra cảnh chia ly phân tán, đă để
lại một gánh nặng cho đoàn hướng
đạo hậu sanh. Đó là điều đáng
buồn và cũng là kinh nghiệm quư giá cho đàn
em trong mai hậu. (...)
“Vết xe trước đă sụp đổ,
đoàn xe sau nên tránh. Kể ra đàn anh chịu
một phần trách nhiệm rất lớn trong
sứ mạng. (...) Vậy chư hiền đệ
muội cũng xem gương ấy mà ghi ḷng trong
thời kỳ hành đạo.” .
Đem hết can tràng, phơi hết ruột gan
mà tỏ bày với người sau như thế, là
cả một t́nh thương bao la trong trách
nhiệm trĩu nặng của người xưa
đối với viễn đồ Đại-Đạo
Tam-Kỳ. Cho nên đức Đoàn Văn Bảy
dạy: “... tổ tiên của con người dù
phải lâm vấp những sai lầm trong quá
khứ, nhưng linh thể của họ nơi cơi hư
vô hằng mong mỏi cho kẻ hậu bối sanh
tiền phải được thanh cao tốt đẹp,
phải được tiến bộ hơn
họ.”
Và lời dạy của đức Hộ pháp
Phạm Công Tắc cũng không ra ngoài ư ấy:
Mong
sao hậu tấn khôn hơn trước,
Để
cố xiển dương mối đạo Thầy.
Cũng chung ḍng tư tưởng như đức
Phạm Hộ Pháp và đức Đoàn Văn
Bản, với nỗi ḷng lo lắng cho bước
đi người sau, đức Ngọc Lịch
Nguyệt tâm sự:
Trót
nguyện cùng nhau đến cơi trần,
Thế
Thiên hoằng đạo độ sanh dân.
Đạo
chưa phổ cập dân chưa tỉnh,
Dẫu
được ra đi luống ngại ngần.
Ngần
ngại cho người sắp bước sau,
Dặm
trường càng thấm lại càng đau.
Đau
t́nh cốt nhục, đau non nước,
Ngoảnh
lại ḱa ai nghĩ thế nào?
Nói đến bài học lịch sử là nói
đến cái hay và cái chưa hay của người
đi trước. Nhưng thế nào là hay và
thế nào là chưa hay? Năm xưa, nếu không có
lời trần t́nh của đức Ngô Minh Chiêu
tại Minh Đức tu viện ,
th́ làm sao người nay hiểu được
nỗi ḷng của ngài? Làm sau hậu thế hiểu
được v́ sao ngài dù đă từ tạ ngôi
vị Giáo Tông mà vẫn cứ chính danh là đệ
Nhất Giáo tông của Tam kỳ Phổ độ?
Hay nói đến việc chia chi rẽ phái. Nh́n
về phương diện này đă đành một
nỗi ngậm ngùi xót xa, nhưng xét ở phương
diện khác lại là lẽ tồn sinh để phát
triển. Đức Phạm Hộ pháp dạy:
Đạo một gốc phát sanh nhiều
chỗ,
Cốt là đem phổ độ nhơn sanh.
Càng nhiều kẻ dữ về lành,
Chung
quy làm sáng cái danh Cao Đài.
Đức Hộ pháp dạy tiếp: “Mỗi
người, mỗi tổ chức hành đạo,
dẫu có khác nhau về danh từ, về h́nh
thức hoặc về nhân sự, đó chỉ là
sự phân chia trách nhiệm để hành đạo
độ đời, dốc làm sao xiển dương
đạo pháp, phổ độ nhơn sanh, cho nên
những người con có hiếu cùng Chí Tôn Thượng
Phụ,
cho nên những hàng hướng đạo gương
mẫu làm sáng danh Đạo, danh Thầy. Đó là
nhiệm vụ chánh, chớ không có nghĩa rằng
gây ảnh hưởng tốt đẹp cho phe nhóm ḿnh,
t́m mọi cách xóa mờ phe nhóm khác. Đó là trái
với t́nh thương, trái với mục đích
khai Tam Kỳ Phổ Độ của Chí Tôn Thượng
Phụ”.
Tính hai mặt như thế của mỗi
sự kiện lịch sử có thể tạm
biện giải bằng lẽ nhị nguyên đối
đăi. Cho nên, một khi c̣n mang trí phàm trong xác
tục, ai dám bảo ḿnh có thể xét chuyện
thị phi không sai chân lư?
Hiểu như vậy mà thông cảm và chia
xẻ với tiền nhân. Người đời
hiểu lầm người đạo đă đành
mà giữa người đạo với người
đạo đă chắc ǵ ai dễ hiểu
được ai!
Một trường hợp tiêu biểu là đức
Cao Triều Phát, Bảo đạo Chưởng
quản Hiệp thiên đài Ṭa thánh Hậu Giang. Sinh
thời, ngài là một hiện tượng độc
đáo của nghĩa khí Nam Kỳ và có lẽ cũng
chính v́ thế mà ngài đă là một nhân vật
phải chịu những mịt mờ ngộ
nhận. Sau này, qua ngọn linh cơ đức Cao
Triều đă tỏ rơ nỗi niềm tâm sự: “Tệ
huynh v́ ḷng nhân ái, v́ sứ mạng thiêng liêng, hy thân
ra đễ lănh hết những điều chết
chóc tai hại của nhơn sanh trong một vùng
Hậu Giang đang đứng kề bên chiếc
đao hai lưỡi. Hoàn cảnh đă xui nên,
dầu phải tử v́ Đạo, lại càng chói
ngời danh tiết. Ḷng Tệ huynh nguyện thế,
nào có sai đâu, nên đoạn đường
cứu cánh đă trói buộc Tệ huynh vào một
hoàn cảnh đặc biệt, mà hiện giờ
sự lầm tưởng vẫn c̣n mang máng trong
đầu óc của chúng sanh, mà những người
biết Tệ huynh th́ rất ít!”
Lại thêm một trường hợp nữa
để người sau thận trọng suy gẫm.
Vào những năm 60 của thế kỷ trước,
trong một lần hội ngộ với tiền
bối Tiếp pháp Trương Văn Tràng tại thánh
thất Nam Thành, tiền bối Huệ Lương
Trần Văn Quế đă bị ngộ nhận.
Than ôi, đó cũng là lần sau chót hai vị
tiền bối đáng kính có dịp luận đàm
việc đạo!
Tiền bối Trương Tiếp pháp quy thiên
ngày 16-02-1965, đúng rằm tháng Giêng năm Ất
Tỵ. Thoát xác rồi, ĺa cảnh giới nhị
nguyên rồi, bấy giờ đức Trương
Tiếp pháp mới nhận ra tấm chân t́nh của
người bạn đạo. Thế nên sau khi thoát
xác bốn tháng, đức Trương Tiếp pháp
đă thông qua tập thể Lưỡng đài
Tiền bối Đại đạo, thỉnh
cầu đức Mẹ cho phép chơn linh Trương
Tiếp pháp trở về trần gian, và chỉ
với mục đích duy nhất là để chính
ngài có dịp giải tỏa với tiền bối
Huệ Lương một ngộ nhận năm nào.
Hôm ấy, đức Mẹ dạy: “Nhân
tiện hôm nay, Mẹ có tiếp khải thỉnh
cầu của Lưỡng đài Tiền bối, Trương
Văn Tràng xin lâm đàn để cùng Huệ Lương
đôi lời tâm sự. Mẹ sẽ cho Kim đồng
hộ trợ chơn linh nhập đàn.”
Sau đó, chơn linh của đức Trương
Tiếp pháp giáng đàn, bộc bạch mấy
lời ngắn gọn như sau: “Huệ Lương
lăo hữu. Tệ huynh c̣n nhớ một lời
hứa tại Nam Thành thánh thất. Buổi hội
trong chi phái Tam kỳ Đại đạo cũng là
lần sau cùng vĩnh biệt. Tệ huynh xin vài
lời lăo hữu thông cảm. Đến giờ này,
Tệ Huynh mới biết ḷng chơn thành của lăo
hữu đối với Đạo.”
Câu chuyện cảm động trên đây
giữa hai vị tiền bối đức độ
khả kính rơ ràng là một bài học lịch
sử cho lớp người sau. Bài học ấy là:
Có những việc của tiền nhân, người
sau không hiểu âu cũng là chuyện thường t́nh
giữa cảnh giới nhị nguyên. Mọi phán xét
đối với lịch sử bao giờ cũng khó
khăn, phức tạp. Đừng ai chủ quan nghĩ
rằng ḿnh có thể thông suốt mọi uẩn khúc
của người xưa. Chỉ khi nào bỏ xác phàm
rồi, chơn linh về thượng cảnh,
lớp sắc màu giả tướng che mắt phàm
trí tục tan biến, bấy giờ mới hiện
rơ lẽ thật.
Bài học lịch sử quư giá ấy c̣n có
một hệ luận quan trọng. Đó là, nếu
biết hễ c̣n mang xác phàm th́ c̣n ngộ nhận,
c̣n lầm hiểu nhau, th́ giữa đồng đạo
dù hiểu lầm đến mức độ nào,
vẫn cố làm theo lời các Tiền khai nhắc
nhở, rút ra từ kinh nghiệm bản thân khi c̣n bôn
ba tại thế:
Một Thầy, một Đạo, một Cha.
Nếu
chưa gần được chớ xa muôn trùng.
Ḿnh với Đạo chung t́nh Tạo hóa,
Phải coi như một ngă một thân,
Đi cho mút quăng đường trần ...
“Hăy đặt lại đại cuộc
đạo nghĩa lên trên mọi cá tánh, mọi
thất t́nh, để làm sáng tỏ danh Thầy danh
Đạo.”
Trong lịch sử kim cổ đông tây, đă
có những vĩ nhân được ngưỡng
mộ và tán tụng rằng tuy sự nghiệp chưa
thành nhưng ư chí đă thành. Đối với
lớp Tiền bối khai Đạo, ư chí dẫu
đă thành nhưng bởi v́ sự nghiệp chưa
thành mà các đấng vẫn măi c̣n vào ra cơi
tục, lúc nào cũng sát cánh cùng lớp người
sau đang bước theo dấu chân người trước.
Đức Bạch Liên Tiên Trưởng (Phan
Thanh) dạy: “... v́ nhiệm vụ c̣n vương
mang với Tam kỳ Phổ độ nên tất
cả chư vị Hội đồng Tiền
bối quá văng đă, đang và sẽ trở
lại thế gian để sát cánh cùng chư hướng
đạo hầu tiếp tục sứ mạng
phổ truyền đạo lư, phổ độ nhơn
sanh.”
Đức Thượng Trung Nhựt và đức
Ngọc Lịch Nguyệt dạy: “Lời thành
thật Tiên huynh nói đây để các em hiểu
cho các anh; dầu được về nơi cơi thượng,
nhưng cũng vẫn hành đạo trong sứ
mạng của ḿnh. Tiên huynh mong rằng lời nói hôm
nay các em hăy xem là tất cả tấm ḷng ưu ái
của các anh đối với các em nơi cơi thượng.”
Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc
dạy: “Đă là thâm t́nh đồng sứ
mạng trong buổi tận độ chúng sanh, dù
kẻ đă ra đi cũng như người ở
lại, đều vẫn c̣n trách nhiệm như
nhau.”
Nói như vậy để thấy rằng bước
chân của người đi sau không hề
đơn độc, mà người đi sau đang
bước đi trong sự hỗ trợ chặt
chẽ của tiền nhân. Đức Cao Triều Phát
dạy:
Cùng
trong con cái Cao Đài,
Kẻ
u người hiển thi tài làm nên.
Đức Thất thánh Tiên Thiên Thượng
Hoài Thanh dạy:
“Tuy việc nhiều người ít, nhưng
không phải như thế mà nản ḷng, kẻ
hữu h́nh rán sức rán công, người Tiên
cảnh sớm pḥ tối trợ.”
Đức Quảng Đức Chơn Tiên
dạy:
Ngày xưa đồng chí đồng tâm,
Nay
dầu u hiển t́nh thâm vẫn c̣n.
Nguyện ḷng hai chữ sắt son,
Xương
minh chánh đạo chẳng ṃn chẳng sai.
Tệ huynh nhắn bạn trần ai,
Cùng
chung sứ mạng Cao Đài xưa sau.
Sắc không hỗ trợ có nhau,
Khó
khăn chẳng bỏ gian lao chẳng rời.
Những t́nh cảm gắn bó thiêng liêng ấy
cho thấy giữa người đi trước
của ngày xưa và người nối tiếp theo
sau của ngày nay nếu có c̣n cách biệt th́
chẳng qua chỉ là sự cách biệt bất
khả kháng của xác thân huyết nhục. Đức
Cao Triều Phát dạy: “Giờ đây Tiên huynh và
các em chỉ cách nhau về h́nh thể huyết
nhục, nhưng chí hướng và sứ mạng
đều cũng như nhau.”
Thậm chí, c̣n hơn thế nữa, người
xưa với người sau tuy chưa một
lần diện kiến giữa chốn trần ai
phong vũ nhưng điều ấy hoàn toàn không
trở thành chướng ngại cách chia t́nh thâm tha
thiết, ân nghĩa nặng sâu. Đức Cao
Quỳnh Cư dạy: “Dầu chư hiền
hữu cùng Tiên huynh chưa một lần biết
nhau lúc sanh tiền, nhưng giờ đây rơ lại
t́nh huynh đệ thiêng liêng không xa lạ.”
Không xa lạ âu cũng dễ hiểu, bởi
lẽ người đi trước kẻ theo sau,
tất cả đều bước chung một con
đường, nung nấu chung một hoài băo,
thắp sáng một niềm tin, và cùng đứng
chung dưới một bóng cờ Đại-Đạo.
Đức Phạm Hộ pháp xác định: “Bần
đạo là người anh đi trước, các
em là những đàn em đi sau, mỗi mỗi đều
núp dưới bóng cờ Đại-Đạo để
phụng sự Thiên cơ, đem lại hạnh phúc,
an vui, thanh b́nh cho nhân loại.”
*
* *
Thêm một mùa Khai minh vừa đến với
những người con áo trắng trên quê hương
Việt Nam, trên mảnh đất mà Thượng-Đế
đă chọn để lập thành Đại đạo.
Và không c̣n bao lâu nữa, một niên tŕnh mới cũng
sắp mở ra cho Cơ quan Phổ thông Giáo lư, cho
bộ máy sau cùng mà Thượng đế đă
dựng gầy để phục vụ sứ
mạng của Đại đạo. Cái thời
tiết khắc nghiệt của mùa Đông đă
qua sẽ làm sắc mai vàng mùa Xuân mới càng thêm tươi
thắm, thế nên:
Hết Đông chí đến ngày khai
thới,
Dầu phân ly hăy đợi tao phùng,
Dặn ḷng một tấm kiên trung,
Muôn
sông ngàn lạch cũng chung một nguồn.
Hơn lúc nào hết, chính lúc này đây,
những tín hiệu tốt đẹp của cơ
Đạo kỳ Ba đang dần dần tỏ
lộ, để cho những ai đă, đang và
sẽ tiếp tục đeo đuổi đường
lối chân chánh của đạo Cao Đài,
thực thi sứ mạng Đại thừa của Cơ
quan Phổ thông Giáo lư lại thêm nung nấu đức
tin khi nhớ đến lời Thiêng liêng năm xưa
đă dạy: Thượng đế không bao
giờ gieo giống trên tảng đá.
Dẫu lịch sử vốn chẳng mấy khi
được xuôi ḍng như ḷng người mơ
ước, nhưng “những bước chân
của người đi trước với
những bước chân của người đi sau
đă và đang khắc sâu trong nền thời gian
từng dấu một.”
“Đại
“Đại Đạo khai minh trên mảnh
đất nhỏ bé này, dù trong hoàn cảnh nào,
thời gian nào, Đại Đạo cũng đă
tự nhận một giá trị, một sứ
mạng nào đó rồi. Giá trị ấy, sứ
mạng ấy có được, không phải
chỉ nằm trong văn kiện, trong giấy
trắng mực đen. Đại Đạo có đạt
được giá trị và sứ mạng đặt
để là nhờ những người nối
tiếp cùng nhau xây dựng. Mỗi cá nhân một
sứ mạng, mỗi thế hệ một trách
nhiệm riêng.”
Nh́n về viễn đồ thất ức niên
(700.000 năm) của Đại Đạo, th́ quăng
đường non 80 năm Cao Đài, hay lịch tŕnh
ngót 40 năm Cơ Quan Phổ thông Giáo lư phải chăng
vẫn chỉ mới là chút mảy may khiêm tốn
của một khởi hành dấn bước?
Ngẫm suy như thế để mà trầm tư
nhớ rằng người hôm nay đang là người
sau của người xưa nhưng rồi chính người
hôm nay cũng sẽ là người xưa của người
sau trên dặm dài sử Đạo.
Thực vậy, nói người xưa đi trước,
nói người nay đi sau, ấy là tạm lấy
một giai đoạn thời gian làm mốc. Khi
đặt con người lịch sử trong lẽ
miên viễn trường lưu của diễn tŕnh
lịch sử th́ ư nghĩa xưa và nay rơ ra vô cùng
tương đối. Thế nên, đức Hộ
pháp Phạm Công Tắc minh định: “Người
xưa đà vắng bóng, chư hiền hữu
tiếp bước theo sau, cũng đồng chung
sứ mạng. Bần đạo cùng các bạn
đồng liêu là hàng tiền bối của ngày
nay, c̣n chư hướng đạo là bậc
tiền bối của ngày mai. Xét ra, kẻ đi người
đến, kẻ tiếp tục theo sau, nhiệm
vụ như nhau, không hơn không kém.”
Và nhớ như vậy, để xin cùng
nguyện cầu, cùng dặn ḷng nhắc nhau, giúp
nhau chân cứng đá mềm thận trọng
tiếp bước đi tới, sao cho không hổ
với người xưa và sao cho chẳng thẹn
với người sau.
Chọn rồi mục đích chánh chơn,
Thệ
ḷng một tấm keo sơn chớ rời.
Người đi trước quên ḿnh v́ Đạo,
Mong ai sau hoài băo tương lai,
Xương minh giáo lư Cao Đài,
Mở
cơ tận độ trong ngoài vạn bang.
Đó cũng chính là tấm ḷng của
Quảng Đức Chơn Tiên (Huệ Lương
Trần Văn Quế) đă v́ ai mà thiết tha trao
gởi cho ai trong buổi đầu tiên trở
lại cơi trần:
Ai ơi sứ mạng đại thừa,
Trọn
đời gồng gánh chưa vừa chưa ưng.
Nh́n nhau bỗng rưng rưng giọt lệ,
Nỗi mừng thương huynh đệ Thiên
ân.
Mừng v́ đường lối chánh chân,
Thương
v́ sứ mạng lắm phần gay go.
Thôi th́ thôi chuyến đ̣ buổi chót,
Ḷng dặn ḷng đắng ngọt chớ nao.
Người xưa để lại người
sau,
Gieo
mầm sống đạo biết bao vuông tṛn.
(Phú
Nhuận, 04.12.2002)
(Bài
nói chuyện tại Cơ quan Phổ thông Giáo lư
Đại-Đạo 9:00 giờ sáng thứ Tư
04.12.2002 nhằm 01.11 Nhâm Ngọ)
|