CHẤP
PHÁP CỰ, TIẾN ĐƯỜNG TU
*
* *
NGỌC
HUỆ CHƠN
Nhập-đề:
Bất
kỳ việc chi, dầu nhỏ dầu lớn,
hữu-h́nh hay vô-h́nh, hoặc tốt hoặc
xấu, hữu-vi hay vô-vi, chơn-thật hay hư-vọng
đều gọi là “Pháp”. Và từ nguyên-tắc,
lẽ-thường cho đến một tôn-giáo,
từ cái luật chung bao gồm vũ-trụ làm
một với Hư-Không, cũng đều gọi là
“Pháp”.
Song
người đời thường dùng tiếng “Pháp”
để chỉ về vật-báu (Đạo-Lư) của
Phật.
Theo
Phật-Giáo, trên đường đời có ba
vật quí nhứt (Tam-Bảo), đó là Phật,
Pháp, Tăng mà mọi người đều
thờ phượng như nhau.
Pháp
của Phật chia ra làm ba thời-kỳ:”Chánh-Pháp
– Tượng-Pháp và Mạt-Pháp”
Ta
đang đi trên đường đời ví như
người đi trong đêm tối, vậy ta
phải nhờ ngọn đuốc (Pháp-cự)
của Phật để soi sáng đường
đi t́m Đạo.
Theo
Cao-Đài-Giáo, Đạo là:
1
- Nguồn-gốc chân-thật
của vũ-trụ vạn-vật.
2
– Đạo th́ thường-tại, vô h́nh, vô-t́nh,
vô-vi, là Thượng-Đế Lư-Tính.
Đạo
ví như h́nh, Pháp ví như bóng. Có h́nh mới có bóng.
Đă có bóng tức phải có h́nh.
Ví
như: Khi nh́n vào mặt nước ta thấy có bóng
trăng. Bóng đó là h́nh của trăng, v́ nó có
đủ h́nh dáng của trăng. Nếu không có trăng
làm sao có bóng; nên trăng xê-dịch th́ bóng cũng
xê-dịch theo, trăng u-ám th́ bóng cũng u-ám theo.
Do đó mà, bóng trăng không phải là giả, v́ bóng
là phản ảnh của trăng. Mà bóng trăng cũng
không phải là là thật…v́ nó không tự có mà
phải nhờ trăng.
Vậy
“Pháp” tuy không phải là Thượng-Đế,
nhưng biết Pháp là thấu suốt được
Thượng-Đế.
Thế
nên, muốn thông-công cùng Thượng-Đế, con
người phải níu lấy “Pháp” mà học “Đạo”,
v́ “Đạo” và “Pháp” tuy hai mà một.
Thế
nào là níu lấy PHÁP để học Đạo?
Níu
lấy Pháp là bền giữ Tri-Giác của ḿnh trong
hiện tướng, sự việc nào đó để
theo dơi và xem xét cùng tận nhân-quả của nó.
Tập-trung tư-tưởng vào một
cảnh-giới nào đó để quan-sát do lai
hầu làm cho sáng tỏ Huệ-Tâm, thông-suốt Chơn-Lư.
Xin
đơn cử một vài thí dụ:
-
Suy
gẫm cùng tột, nghiền ngẫm rốt-ráo ḷng
Đại-Từ, Đại-Bi của Thượng-Đế.
Đó
là “Pháp Quán-Tưởng”
-
Lần
hạt, luyện châu. Đó là “Pháp thu-nhiếp
Vọng-Tâm”.
-
Nh́n
Thánh-Nhăn, Quỳ-Hương. Đó là “Pháp Chánh-Định”
Nếu
ta nhiệt-thành tŕ-chí làm được những
việc đó, gọi là níu lấy “Pháp”, kết
quả sẽ tạo một cảm-ứng hết
sức lớn-lao, giữa con người và Thượng-Đế,
là ch́a-khoá ngộ-thông chơn-lư vậy.
-
Trăng sao, mây nước, nhà cửa, núi sông,
cả đến tâm-hồn, xác-thịt này, đều
là “Hữu-Vi-Pháp.
-
Các Pháp nầy có kư-nạp
điểm Linh-Quang Chơn-Tánh là Thượng-Đế.
Do đó mỗi người là một phân-thân
của Thượng-Đế.
-
Đời tu-hành, ta có đắc-thành hay không, nghĩa
là có chứng đặng đạo-quả hay không
là do nơi chí quả-quyết của ta có nhứt tâm
tận-dụng Đại-Hùng Đại-Lực
để tâm cho thành Chánh-Pháp như Đức Thích-Ca
ngày xưa hay không?
Phật
đă dạy:”Ta là Phật đă thành, chúng sanh
là Phật sẽ thành”
Kinh
Phật cũng nói:
Nhứt
thiết hữu-vi Pháp
Như
mộng huyễn, bào ảnh,
Như
lộ diệt, như điển,
Ưng-tác
như thị quán.
Tất
cả hữu-vi-Pháp đều như chiêm-bao,
bọt-nước, sương-mai, điển
chớp. Vậy phải bằng-cứ vào đó mà
quán-sát để t́m lấy Chơn-Lư.
Thượng-Đế
Lư-Tính, thọ kư trong mỗi chúng ta được
gọi là Linh-Tánh hay Điểm Linh-Quang.
Điều
đó, các tín-hữu Cao-Đài đều tin
nhận, nhưng có c̣n nhân-duyên tin nhận được
ḿnh là con của Thượng-Đế hay không. V́
măi bị mặc-cảm nên chưa dốc ḷng hướng-thượng.
Cần
nên hiểu: “Ngộ Đạo” chỉ trong
một phút, “Thành Đạo” cũng trong một
phút. V́ sao?
V́
trong giây phút nào đó, khi đă ngộ-thông
được Chơn-Lư rồi tức là vịn
lấy Chơn-Lư mà thực-hành chuyên-chú cho đến
ngày thành-đạt trong tương-lai.
Trái
lại, nghe Pháp rất nhiều, nhưng lại vướng-mắc
trong các Pháp. Cũng như: chuông, mơ, chùa-chiền,
đọc-tụng, lễ-bái, ăn-chay,
giữ-giới, làm lành v.v…đó là những phương-tiện
nhỏ để đi lần đến cứu-cánh,
giải-thoát rốt-ráo, là đắc Đạo.
Đức
Phật thị-hiện:
-
Để
khai mở cái “Tri-Kiến”, chỉ cho ta thấy
“THỊ”,
-
Làm
cho chúng sanh nhận rơ “NGỘ”,
-
Để
chúng sanh đi vào “NHẬP” cái “Tri-Kiến” kia.
Tức là cái Chơn-Lư giải-thoát rốt ráo.
Ta
muốn đi vào con đường tu-hành là để
làm ǵ?
V́
ta chưa biết Đạo nên muốn bước vào
cửa Đạo để học và tu, cũng ví
như một em bé chưa biết
đi nên thấy người đă đi được
rồi thèm lắm. Em mới ḅ đến gần cái
bàn, cái ghế, vịn vào đó để tập
đứng dậy. Khi đă đứng được
rồi, em bắt đầu tập buông tay rồi
lần lần tập đi. Buổi đầu em
gặp rất nhiều khó khăn, nhưng cố rán
tập nhiều lần cũng sẽ đi được.
Khi đă đi được rồi em đâu c̣n
cần đến cái bàn cái ghế như hồi xưa.
Lúc
c̣n thơ ấu, cha mẹ cho vào lớp mẫu giáo
để học. Thầy và cô giáo dạy tập
viết trên giấy có kẻ hàng đôi để
tập viết cho đều chữ. Khi đă
viết được chữ tốt rồi th́
đâu c̣n cần đến giấy kẻ nữa.
Bác-sĩ
Nguyễn-văn-Thọ đă dựa theo thuyết
Dịch và Trung-Dung để giải thích”Đường
Đời theo Dịch và Trung-Dung” trong quyển
Trung-Dung Tân-Khảo, nơi trang 205-211 như sau:”Nghiên
cứu đồ-bản Dịch, hoạ-bản Bát-Quái,
ta đều thấy ngôi Thái-Cực được
đặt vào Trung-Tâm-Điểm. Cổ nhân
muốn nói Dịch hay Vô-Cực hay Thái-Cực là
Trời, là Tạo-Hoá ở ngay Trung-Tâm vũ-trụ.
Người là tiểu-vũ-trụ, tức là
Trời cũng ở ngay trong tâm-hồn để làm
Trung-Tâm (TRUNG) Bất-Biến
(DUNG), làm Chơn-Tâm nuôi sống con người,
làm giường-cột (axe) cho con người
dựa nương.”
Rồi
ông chứng minh một đoạn trong cuốn “La
Religion essentielle” P.200 của Claude de St Martin cité par
Illan de Casa Fuerte:
"Le
Principe suprême, source de toutes les puissances, soit de celles qui
vivifient les pensées dans l’homme, soit de celles qui engendrent les
oeuvres visibles de la nature matérielle; cet être nécessaire à tous
les êtres germe de toutes les actions, de qui émanent (mot fatal,
plume qui trahit). continuellement toutes les existences; ce terme
fatal, vers lequel elles tendent comme par un effort irrésistible,
parce que toutes recherchent la vie; cet être dis-je, est celui que les
hommes appellent généralement Dieu."
Ông
tạm dịch như sau :
Biên
khu luân-lạc từ bao,
T́m
sao cho thấy đường vào Trung-Dung.
Đường
Trung-Dung linh-lung ẩn-khuất,
Nẻo
Bồng-Lai gai dấp lau che
-
Ông cũng dịch bài thơ của
Thiệu-Khang-Tiết giải thích: đâu là
đường lối Trời, đâu là đường
lối người bằng 8 quẻ Dịch:
Tai
mắt Nam-Nhi đứng cơi trời,
Ḷng
mang Tạo-Hoá há đâu chơi;
Quyết
thăm Nguyệt-Động cho hay vật,
Cố
hiểu Thiên-Căn để biết người.
Trời
nổi gió giông thông Động-Nguyệt,
Đất
vang sấm chớp lộ căn Trời.
Căn-Trời
Động-Nguyệt thường lai văng,
Ba
sáu cung Xuân trọn vẹn đời
(1)
Thế
nào là vướng-mắc trong các PHÁP?
Nghĩa
là khi hành động một việc ǵ mà tâm-thức
lại dính mắc theo với danh-sắc t́nh-tiền
để
vọng cầu tham-luyến những điều
thoả-măn riêng tư của ảo-tưởng, làm
tri-giác
náo
loạn, không làm sao giải thoát khỏi ṿng vây
khốn-đốn của các PHÁP. Đó Chơn-Thần
bị xô ngă trong hôn mê lầm lạc. Người
tu được nghe Pháp nhưng lại vướng
mắc trong Pháp.
-
Ví như người chèo thuyền trên ḍng nước
ngược. Thay v́ phải đứng sau lái để
chèo thuyền vừa để đẩy thuyền
đi, lại vừa để giữ thuyền
khỏi quay mũi. Nhưng ngược lại, người
đó đứng ở trước mủi mà chèo. Dĩ
nhiên sức người sẽ đẩy mũi
thuyền bạt đi, rồi thuyền phải quây
tṛn và lật ngược.
-
Người tu hành, thường nghe thuyết-pháp,
tụng đọc kinh sách, nhưng không nghiên
cứu và thực hành các
Pháp mà vẫn vướng mắc trong các Pháp cũng
tai hại như người chèo thuyền.
-
Cũng lắm người nhập môn, qui-y vào
cửa Đạo, nhưng chỉ tu bằng cách tính
ngày kể tháng, tư tưởng đó mong cầu
cửu-quyền thất-tổ được siêu thăng
và mong cầu ḿnh sẽ được văng-sanh
tịnh-độ hay sẽ nhờ Trời Phật
phất phướn dẫn độ lên hoặc
nhờ ban hộ-niệm cầu siêu giải thoát.
Thử tưởng
tượng, có hôm nào ta không ăn cơm, rồi mượn
người quen ăn dùm ta
bửa đó để ta no. Có
được không?
Có
chăng nhờ nguyện-lực của Ban
Hộ-Niệm và Thần-lực của
Trời-Phật, tuy rất lớn, nhưng chỉ là
phần phụ, chỉ trợ-lực,
trợ-cảnh, hộ-tŕ, nhưng không nhứt
thiết hóa-giải được tất cả
nghiệp-lực ma chướng đă tích-lũy
từ lâu.
Trời
Phật, Thánh Thần chỉ dẫn-độ cho ta
con đường giải-thoát, chớ không thể
bồng ẳm ta lên để giải-thoát ta
được.
Trí-Tuệ
là ǵ?
Là
sự sáng tỏ của Linh-Tánh. Là sự Chơn-Chánh
do công-phu tu-hành và sức cảm thông mà có, chớ
không hẳn do sự học hành nghiên cứu mà có.
Muốn được trí-tuệ, ta phải mượn
tấm thân tứ-đại nầy để làm
cốt cách đặng rèn luyện. Nếu
quyết-chí quày đầu nh́n về một hướng
tu-hành, th́ Pháp-Môn đă có sẵn với phương-tiện
trong Đạo ngoài Đời, sẽ trợ duyên
thuận hợp. Đó là những yếu-tố
cần-thiết, lúc nào cũng sẵn sàng giúp cho người
tu tùy-thuận ứng-dụng hành-tŕ cho người
tu, th́ cần ǵ mơ tưởng, trông chờ nơi
đâu.
Nếu
người tu hành đồng xác nhận quan điểm
là như thế th́ việc tu hành nào có khắc-khe
phân biệt việc tu nhà, tu chùa, tu chợ, tu núi, tu
động, cốc, vô-vi hay phổ-độ.
Khi
đă quyết-định vào Đạo th́ phải
bắt đầu tu, giờ phút nào cũng tu. Không
đợi chờ chúa-nhựt ngày lễ đi chùa
mới tu được, v́ thời gian dành cho
mỗi người tối đa là 100 năm, qua
một ngày là mất đi một ngày, nếu
chẳng mai nữa đường găy gánh th́
uổng cho một kiếp người:
Nhơn
thân nan đắc, Phật-Pháp nan văn
(Thân
người không dễ mà có, Phật-Pháp không
dễ mà nghe)
Chúng
sanh, già trẻ đều nên tu. Tùy căn cơ tŕnh-độ
mỗi bậc, chúng sanh tu để tiến vào hàng
tín-đồ, chức sắc lo tu để tiến
lên Thánh-Hiền, Bồ-Tát, giữ tṛn Đạo-hạnh
th́ đắc-thành Tiên-vị, Phật-quả,
tức là đồng-thể cùng Thượng-Đế.
Thế
nào là Thượng-Đế?
Thượng-Đế
là Thể-Tánh Chơn-Thật, an-b́nh, thiêng-liêng, thường
hằng trong mọi loài, mọi vật, cùng khắp
Càn Khôn vũ-trụ. Trong khoảnh-khắc nào đó,
lương-tri loé lên tuệ-giác, tức là Thượng-Đế
Lư-Tánh, nhứt-thời thị-hiện trong ḷng người.
Nếu
Thượng-Đế Lư-Tánh đó bị
che-khuất v́ mê-vọng của hữu-h́nh th́ Chơn-Thần
cũng sẽ bị ch́m đắm chơi-vơi.
Chỉ khi nào công tŕnh tu-tiến đă đến lúc
hóa trừ được mọi che khuất của
hữu h́nh th́ Chơn-Thần mới an-định và
Đạo-quả mới đắc-thành. Đó là
ngày viên-thành tu nghiệp vậy.
H́nh-tướng,
lễ-nghi, qui-giới, tịnh-thất, chùa-chiền,
chuông mơ cúng lạy, thờ phượng... đều
là PHÁP PHƯƠNG-TIỆN để độ
dẫn con người đến Đạo, thật
ra th́ những tướng ấy không phải là
Đạo. Nếu lấy phương-tiện làm
Đạo, chẳng khác nào lội nước để
t́m trăng.
Chùa
thất nguy-nga, nghi-lễ trang-nghiêm, tín-đồ
đông đảo, tất cả những cái đó
đều phải được ứng dụng như
con thuyền để đưa khách. Khách có
muốn sang sông th́ phải lên thuyền, rồi
thuyền sẽ đưa khách đến đích. Mà
đích đó là ĐẠI-ĐẠO, cứu cánh
của người tu. Thuyền đă sẵn chờ
khách, vấn đề là khách có chịu bước
lên chăng, đó là giây phút quyết định
dấn thân thực hành. Giây phút đầu tiên
đó có được liên-tục cố gắng,
bền chặt mới đi đến thành công.
Bằng ngược lại, khách cứ măi ngắm
cảnh, ngắm thuyền, thích thú v́ thuyền đẹp,
măn nguyện v́ thuyền sang, rồi không ai chịu
dứt khoát bước lên thuyền th́ vạn
kiếp thuyền vẫn không rời bến, khách th́
vẫn ngồi đây. Làm sao thuyền rời
khỏi bến th́ mục đích vẫn c̣n xa
vời...
Dù
cho người tín-đồ hết ḷng
phụng-sự cho tôn-giáo mà không chịu níu lấy
Pháp Phương-Tiện để đạt lấy
cứu cánh th́ tất nhiên bị vướng
mắc vào h́nh bóng, sự tướng mà không bao
giờ ngộ thông Chơn-Lư.
Đức
Phật đă dạy:
"Nhược
dĩ sắc kiến ngă,
Dĩ
âm thanh cầu ngă;
Thị
nhân hành tà đạo,
Bất
năng kiến Như-Lai“
Tạm
dịch:
(Nếu
nh́n Ta qua sắc tướng,
Nếu
cầu Ta qua âm thanh,
Đó
là những kẻ theo tà đạo,
Không
thấy được Như-Lai)
Như
vậy ngộ thông được Chơn-lư, tức
là tri-kiến th́ chúng ta phải thực hành ngay các
Pháp để khai mở Tuệ-giác, hiệp nhứt
cùng Trời Phật. Song song với việc hành tŕnh
ấy, cái mà ta đă nghe, đă hiểu, đă nói,
đă được khuyên bảo người khác,
trước nhứt phải được áp-dụng
ngay trong bản thân ḿnh và thể hiện trong đời
sống tu hành. Đó là hạnh của người
tu, như : từ-bi, hỷ-xả, vị-tha, bác-ái,
công-b́nh.
Người
đời thường bảo : «thân
tứ-đại này là vô-thường, không chi là
thật tướng» . Vậy ta nên cởi bỏ
cái Ta và những ǵ hệ-lụy của cái Ta ra ngoài
Thần-Thức. Như vậy th́ lấy ǵ làm
loạn Chơn-Tánh và sẽ dứt bỏ được
mọi phiền-năo. Đó là « Đạo
giải-thoát ». Những ám ảnh của
cảnh-sắc, vật-chất có thể đẩy
ta vào con đường đau khổ, mọi người
đều chối bỏ, chạy trốn, song càng
chạy trốn th́ nó càng đuổi bắt. Trái
lại, người tu hành, nhờ phương-tiện
giáo-lư, nghe, thấy, đă hạnh-nguyện : « Từ-bi
là thương người như thể thương
ta, và Công-b́nh là không muốn ai làm khổ ḿnh, th́
xin đừng làm khổ người khác. Cũng như
không muốn ai ăn thịt ḿnh th́ tại sao ḿnh
lại lấy xác thịt của đàn em yếu
đuối của ḿnh để làm món ăn ngon cho
ḿnh? ».
Khi
đă ư-thức được vậy rồi, người
tu hành chấp nhận tự giải-thoát ra ngoài
những cái đó, cũng ví như cây sen mọc lên
từ trong bùn lầy hôi thúi, nhưng không v́ lẽ
đó mà không cho người đời những cành
bông sen mang đầy hương sắc dịu-dàng.
Tại
sao phải chấp nhận cảnh đó?
V́
có chấp nhận mới nghiệm thấy và
chứng thật được hiệu-lực công-phu
tu-tŕ. V́ mọi cảnh giới trên thế-gian vương-vấn
đến với ta ít nhiều nên phải có nguyên-nhân
nào đó, quả báo nào đó. Vậy đứng
trước cảnh đó, ta phải hoan-hỷ,
bằng ḷng chấp nhận, không tránh né, rồi
khảo-sát suy-nghiệm, t́m xem cái gốc của
quả báo đó với ta đă liên-hệ như
thế nào?
Nhờ
có khảo-sát, suy nghiệm, vừa truy-tầm hóa-giải
và nhận nó, lần lần cởi bỏ mọi
phiền-năo và cắt đứt mọi duyên-nghiệp
về sau. Được vậy, ta sẽ thể
hiện được hạnh hỷ-xả, không c̣n
vướng mắc trong h́nh sắc giữa hàng rào
đối-tượng : TA-NGƯỜI, CHỦ-KHÁCH.
Ngay từ giờ phút đó ta trụ tâm yên
lặng, để nh́n thấu vào chỗ hàm tàng sâu
kín của Tâm-giới để suy nghiệm.
Tóm
lại:
ĐẠO
và PHÁP là mục đích cứu-cánh của người
tu.
Khi
nào cửa đạo, mọi người đều
hoan-hỷ, v́ có hoan-hỷ th́ hạnh mới
khoan-dung. Tâm mới thư-thái. V́ Tâm là nơi
ấp-ủ, chứa đựng mọi thứ h́nh bóng,
suy-cảm và nghiệp-thức đă tích-tụ
từ vô-thỉ kiếp lai-sinh. Tâm ấy khi
vọng-động th́ các thứ tiếp nối sinh
nở, rồi lại ẩn trốn để
dấy-động. Khác chi mặt hồ nổi sóng,
sóng chạy lăn-tăn tiếp nối lan tràn, không
làm sao chận lại được.
Trong
lúc đó, người thế-gian cố sức đè
nén ḷng tà để không gạt ra tội lỗi.
C̣n
người tu-hành th́ tiến xa hơn bằng cách,
dùng "Pháp Công-Phu Quán-Định" để hoá-trừ
diệt-tận cái vọng-tâm ấy từ trong nguyên-nhân
-
QUÁN : Là kéo các mối tâm-thức gom lại
một chỗ để thông suốt.
-
ĐỊNH : Là
trụ tâm-thức vào chỗ vắng-lặng để
bền chặt cái thông-suốt đó.
-
QUÁN được th́ tâm-thần không giao-động,
nghiệp-thức không sanh-diệt vọng-loạn.
-
ĐỊNH được th́ tâm-thần
rỗng-suốt, các nghiệp-thức đều
diệt, cảnh-trí
đều không.
Nhờ
đó, người tu hành có được một cái
Tâm thanh-tịnh, nghiệp-lực đều rủ
sạch th́ dù cảnh nào có va chạm cũng không
hề nhốm lên được. Cũng như
giữa đêm trường vắng vẻ, chỉ có
ḿnh thôi mà sao trong đầu bổng hiện lên
những cảnh sắc thế gian? Chính cảnh
sắc đó là đầu mối gây tạo nên
nhiều cám dổ đ̣i hỏi dục-vọng.
Rồi nó sai khiến ta rắp tâm đắm ch́m vào
hành-động mưu toan sẽ tới.
Cho
nên, làm sạch Tâm-thức phía trong th́ dù cảnh bên
ngoài có cuồng-loạn đến đâu cũng không
khuấy động được ḷng ta, v́ phía trước
ta không c̣n môi-giới để tiếp nhận.
Khi
Tâm-thức đă sạch th́ Tâm-giới
vắng-lặng, tức là Tâm Thanh-Tịnh, th́ Chơn-Thần
minh-mẫn, trí-tuệ hiển-hiện ngộ-thông
được Chơn-Lư. Đó là ĐẠO
Nói
riêng về Đạo Cao-Đài, người tín-đồ
nhập-môn cốt để tu hành theo đường
Chánh-Đạo.
Nghĩa
là tu từ gần đến xa. Từ thấp lên
cao. Từ Phổ-Độ đến Đại-Thừa.
Như
vậy không cốt để lập-dị, không
lập-phái lập-chi, kết nạp cho nhiều
đơn vị để làm hậu-thuẩn.
Thế th́, dù số lượng có đông hay ít,
đối với tư-tưởng Cao-Đài Đại-Đạo
không v́ đó mà vui buồn. Nếu lượng
nhiều mà phẩm không có th́ cũng không lấy ǵ
làm lạc-quan hay bi-quan.
Mặc
dù lượng có ít nhưng toàn là người
quyết-tâm quyết-chí tu hành, dứt bỏ
tham-luyến, giải-thoát vọng-loạn, hành-tŕ
được từ-bi, hỷ-xả, phá được
chấp-trước, cởi mở thành-kiến,
biết thương yêu nhau, d́u dắt nhau trở thành
một khối lượng tinh-thần đạo-đức,
muôn người như một. Mặc dù thưa-thớt
nhưng nơi nào có th́ nơi đó chứa đựng
đường tu chơn-chánh.
Ghi
chú:
(1)
Bài thơ của Thiệu-Khang-Tiết :
"Nhĩ-mục
thông-minh nam-tử thân,
Hồng-Quân
phú-dữ bất vi bần;
Tu
tham Nguyệt-Quật phương tri vật,
Vị
nhiếp Thiên-Căn khởi thức nhân.
Càn
ngộ tồn thời quan Nguyệt-Quật,
Địa
phùng lôi xứ kiến Thiên-Căn.
Thiên-Căn
Nguyệt-Quật thường lai văng,
Tam-thập-lục
cung đô thị xuân."
Tham-khảo :
-
TGST
của CQPTGL Saigon
-
Bs
Nguyễn-văn-Thọ –
«Trung-Dung Tân-Khảo» Nxb Văn-Đàn (Ronéo)
1965
-
Chí-Tín
– «Cao-Đài-Giáo Đại-Cương» tái
bản lần thứ III – BTT CĐGL (Tây-Đức)
|