T́m
hiểu:
CAO-ĐÀI
TÔN-GIÁO và CAO-ĐÀI
ĐẠI-ĐẠO
*
* *
Ngọc-Huệ-Chơn
Nh́n
chung cuộc sống của nhân-loại trên
thế-gian nầy, không ai có thể sống
lẻ-loi cô-độc mà tồn-tại. Nhân-loại
cần kết-nạp nhau
thành đoàn-thể, thường gọi là “Xă-Hội”.
Xă-hội
loài người phải nương tựa nhau để
cung-ứng cho nhau qua bốn vấn-đề quan
trọng là: “cơm ăn, áo mặc, nhà ở,
thuốc men” mà Phật-giáo gọi là
“Tứ-Diệu-Dụng”.
Nhưng
cuộc sống ấy có cái hay mà cũng có cái
dở.
“Hay”
là nhờ có trí khôn hơn sinh-vật nên
tổ-chức cuộc sống càng ngày càng văn-minh
và đủ tiện-nghi về mặt
vật-chất.
Nhưng
trái lại, cũng có cái “dở” là đời
sống con người thường-xuyên bị đe-dọa
bởi sự đấu-tranh chen lấn, không lúc nào
được hưởng an vui hạnh-phúc
lâu dài.
Là
tại v́ con người bỏ mất phần
rất cần cho tinh-thần. Đó là Đạo-Đức.
Sở
dĩ có tai-họa chiến-tranh là do nơi ḷng tham vô-tận
nên khiến cho nhiều thức-giả quan tâm đến
đời sống xă-hội,
bao che dùm bọc lẫn nhau trong tinh-thần tương-thân
tương-ái khiến cho xă-hội ngày càng hưng-thịnh
hơn trong cảnh an-lạc thái-ḥa.
Các
bậc trí-thức chia sự an vui xă-hội ra ba thành
phần:
1/-
Nhu cầu cuộc sống vật-chất là: Cơm
ăn, áo mặc, nhà ở, thuốc men.
2/-
Nhu cầu xă-hội là: tạo cho xă-hội có
trật-tự đoàn-thể để giữ
mối liên-quan mật-thiết với
nhau, tôn trọng quyền-lợi nhau để
giảm bớt những tranh-chấp có thể
đưa đến chíến tranh.
3/-
Nhu cầu tinh-thần là: Nhu-cầu thuộc
về luân-lư lễ-giáo. Nhu-cầu này đưa con
người bước
vào cửa tôn-giáo để sùng-kính lễ-bái
một Đấng vô-h́nh gọi là GIÁO-CHỦ.
1/-
MỤC-ĐÍCH của TÔN-GIÁO:
Mục-đích
của tôn-giáo là khuyên-nhủ con người
dẹp bỏ ḷng tham-vọng, xa lánh ác-nghiệp
để đi đến một xă-hội mới
với sự phát-minh
nền văn-hóa đặc biệt để lưu
lại cho lịch-sử tàng-trử một
kiến-thức văn-hoá riêng biệt của dân-tộc
đó. Chính tôn-giáo đă có từ khi
tập-thể loài người xuất-hiện ở
buổi sơ-khai trên quả địa cầu.
2/-
ĐỊNH-NGHĨA TÔN-GIÁO:
Từ
xưa đến nay, các đấng Giáo-Chủ và
những nhà hiền-triết đă định-nghĩa
Tôn-Giáo:
A/-
Tây-Phương gọi Tôn-giáo là Religion, phát sanh
từ tiếng La-tinh “Rego”, c̣n tiếng Romain là
“Leg”. Có nghĩa là: Giao phó đức-tin của ḿnh
cho một đấng Thiêng-Liêng tối-thượng.
V́ họ tin rằng:
-
Đấng
Thiêng-Liêng
tức là Giáo-Chủ đă tạo ra
thế-gian và vạn-vật.
-
Tin tưởng tuyệt-đối và không
nghi-ngờ những giáo-điều của đấng
Chúa-Tể.
-
Tuân theo qui-luật tự ḿnh phát nguyện, giao
cả sinh-mạng của ḿnh cho vị giáo-chủ
đó.
B/-
C̣n Đông-Phương định-nghĩa Tôn-giáo là:
-
Tôn
là Gốc, sanh ra ngọn ngành.
-
Giáo
là Dạy, là Tu Sữa, sắp xếp
lại cho có phương-pháp, có quy củ.
-
Tôn-giáo
là sự biểu-lộ
tư-tưởng của quần-chúng đối
với vấn đề Tâm-Linh.
Lịch-sử
các tôn-giáo trên thế-giới đă chứng-minh
rằng:”Một tôn-giáo được
phát-minh tại đất nước nào th́ nền
tôn-giáo đó sẽ trở thành sở cầu cho dân-tộc
đó. V́ tôn-giáo là nhu-cầu thiết-yếu cho TÀI
CÁN (sở-năng) và sự HIỂU BIẾT (sở
tri) của con người để bù-đắp vào
những khuyết-điểm về tinh-thần và
bổ-túc cho cái VIỆC LÀM (sở hành) hầu
cứu văn t́nh-thế bi-đát bởi sự sa-đoạ
của lớp người chạy theo
vật-chất gây nên”.
Khi
nói đến tôn-giáo là nghĩ đến đoàn-thể
có ít nhiều tổ-chức về h́nh-thức,
lễ-nghi, biểu thị cho sự liên-lạc
giữa người và thần-linh, bao-trùm một ư-nghĩa
tôn-kính. Ngoài ra tôn-giáo c̣n có nghĩa là Tín-Điều.
Khi nói đến tôn-giáo th́ nghĩ ngay đến
Đấng Cao Cả siêu-phàm có quyền-năng
phi-thường như: Cứu dân độ thế mà
tôn-giáo nào cũng có “giáo-điều hay tín-điều”
riêng. Tiếng Pháp gọi là “Crédo”
Như
vậy, tôn-giáo đồng-nhứt với dân-tộc,
v́ t́nh đồng-đạo là nền tảng
của t́nh đồng-bào ruột thịt cùng nhau xây
dựng hạnh-phúc ở trần-gian. Tôn-giáo là
nhịp cầu thông-cảm để keo sơn
gắn bó t́nh dân-tộc cùng người đồng
đạo để cùng nhau vượt khỏi
trần-gian tiến về vĩnh-cửu. Đó là ĐẠO.
Bước
sang NHO-GIÁO, Đức Khổng-Tử, vị giáo-chủ
mà nhơn-loại tôn-sùng là “Vạn-Thế Sư-Biểu”.
Ngài đă biểu-thị ĐẠO và TÔN-GIÁO
qua đồ bản Ṿng-Tṛn và Tâm-Điểm.
Then-chốt
của Nho-Giáo là Tâm-Pháp nghĩa là tin có Trời
hay Đạo, cao hơn nửa là tin có Trời
ngự trị nơi đáy ḷng. V́ trong cái Nhân-Tâm
nghiêng ngữa đa đoan c̣n ẩn-áo
“Nhân-Tâm duy nguy, Đạo-Tâm duy vi”.
Đạo-Tâm là Tâm-Điểm, là
ảnh tượng của Trời (Thiên-Mạng)
ẩn-áo trong người. (Thiên-Mạng chi vị
Tính) là nguồn gốc, là Tính (Essence), là Nhứt
(Unité), là Toàn-Thiện (Perfection).
Nếu
tuân theo mạng Trời đó là Đạo
(Suất Tính chi vị Đạo) là căn-cứ trên
sự tuần-hoàn vận-chuyển của Đạo
th́ vạn-loại có những tiến-tŕnh
tiếp nối nhau không ngừng nghĩ.
Trời
Đất được
tạo lập khi Lưỡng-Nghi (Âm Dương)
giao-thoa nhau sanh hoá muôn loài trong đó có con người.
Con người phát-xuất từ cái Đạo.
Từ
đó (Nhứt-Bổn) tiến ra chỗ hữu
h́nh (Tán Vạn-Thù). V́
có “Tán Vạn-Thù” nên mới có cơ
Phổ-Độ rồi từ con người
tứ-đại (Vạn-Thù) tiếp tục
tiến-hóa để trở về (Qui Nhứt
Bổn) nơi Hội-Tụ (Phản-Phục)
về với Đạo hay là Trung-Tâm-Điểm.
Vậy Trung-Tâm-Điểm là Đại-Đạo
c̣n ṿng tṛn bên ngoài (Vạn-Hữu) là Tôn-Giáo
hay cái cửa, bước qua đó để t́m
về cái Đạo.
Như
vậy, Tôn-Giáo là con đường đi từ
ngoại-cảnh trần-đời tiến vào trong Tâm-Điểm,
là nơi Thần-Linh nội tại
ngự-trị, nên người tín-đồ Cao-Đài
phải băng qua các tầng lớp biến-thiên
của nội-tâm để t́m cho thấy “Thượng-Đế”
tiềm-ẩn trong
tầng sâu-thẳm của con người.
T́m
hiểu CÔNG-GIÁO, ta sẽ thấy Thánh Augustin nói
“Tâm-hồn chúng tôi măi lo âu cho đến khi
được an-nghĩ ở trong Chúa” (INQUIETUM
EST COR NOSTRUM, DONEC RESQUIESCAT IN TE).
Mọi
sự việc trong trần-gian đều vô giá-trị
và con người chỉ đạt được
tới cái tuyệt-đối khi biết phủ
nhận giá trị tự tại của trần-gian và
tháo gỡ mọi xiềng-xích trói buộc con người
vào cuộc đời, ngay
cả những xiềng-xích ân-ái nhứt là tôn-giáo.
Trần-gian
chỉ là ao hồ của nước mắt, là nơi
thử thách mà tạm thời con người
phải chịu đựng. Đây chỉ là quê hương
tạm bợ mà con người đích-thực không
có quyền quyến-luyến, c̣n quê hương
đích-thực của con người là Thiên-Đàng.
Một
quán trọ, một bến đ̣, thế-gian là nơi
dừng chơn chốc-lát để chờ
chuyến đ̣ tách bến sang ngang, mà quê hương
đích-thực của con người là Trời,
chớ không phải là Đất. Như vậy, Đạo
là một vật duy-nhứt vô-nhị, có thể
quan-sát bằng trăm ngàn quan điểm khác nhau, nhưng
nó vẫn giữ được cái nguyên-chất
của nó. Ví như:
A/-
Cùng nhau đi múc nước, người th́ dùng tô,
kẻ lại dùng hủ, kẻ khác dùng thùng v.v.. Nhưng
tất cả nước đó, nếu dùng đựng
trong tô, th́ nó mang h́nh cái tô, đựng trong hủ
mang h́nh cái hủ, dù trường hợp nào nước
cũng vẫn là nước.
Tinh-thần
các tín-đồ trong mọi tôn-giáo có thể so sánh
như những dụng khí nầy. Mặc dầu nó
mang h́nh-thức
lễ-nghi riêng biệt, nhưng chung qui đều
cố-gắng t́m về với Thượng-Đế.
Cũng như nước đựng trong mỗi
dụng-khí khác nhau đó đều mang h́nh ảnh
của Thượng-Đế Lư-Tính là Thượng-Đế
sẽ đến với các tín-đồ bằng
h́nh-thức của dụng-khí đó.
B/-
Một đoàn lữ-hành phát xuất từ các phương
hướng khác nhau đồng cùng nhau vượt
đèo leo núi đi t́m báu vật chôn dấu trên
đỉnh núi. Cuộc hành-tŕnh mau hay chậm là tùy
theo đường đi dễ hay khó và kẻ
lữ-hành có dốc cả tâm trí để đi
cho mau đến đích hay không. Chung qui trước
hay sau rồi mọi người cũng đều
tới đỉnh.
Lẽ
dĩ nhiên, có nhiều con đường đưa
đến Thượng-Đế, cũng như có
bao nhiêu người ở thế-gian nầy đều
có bao nhiêu hơi thở. Cũng như các tôn-giáo
đều vạch sẵn cho tín-đồ ḿnh
một qui-tắc là: Lễ-bái, nghi-thức
thờ phượng, buộc người tín-đồ
ḿnh tin tưởng Chơn-Lư. Đó là Tín-Điều,
là phương-tiện dùng để bước lên
nấc thang băng qua những băng tầng ngăn
cách đặng về với Bản-Thể
Tuyệt-Đối là Thượng-Đế.
Bước
sang vườn hoa Cực-Lạc của Phật-Giáo,
ta sẽ thấy Đức Phật không đề
cập đến Thượng-Đế hay Đạo
mà chỉ thường nhắc tới: Như-Lai-Tạng,
Phật-Tánh, Pháp-Thân, Chơn-Tâm, Trí-Tuệ-Phật,
Bản-Lai Diện-Mục, v.v… Nhưng để
dễ hiểu, có nhà Thiền-Sư nọ mượn
danh-từ Ông CHỦ để chỉ cái ĐẠO.
Phàm
vật ǵ đặt được tên th́ nó có
vị-trí cố-định c̣n cái ǵ không đặt
tên được th́ nó mang nhiều tên, Ví như:
Trong một buổi họp mặt rất đông người,
có một vị đứng lên phát biểu ư-kiến
rất hay khiến nhiều người để ư.
Khi ra về, nhiều vị khác, v́ không biết tên
ông đó nên tả h́nh dáng ông đó cao, người
khác nói ông đó mập, người khác bảo ông
đó đen v.v… Nếu như mà biết rơ ông
đó tên ǵ th́ khỏi dùng nhiều tên. Sở dĩ
Phật phải dùng nhiều tên như vậy là v́
tùy hoàn-cảnh, địa vị mà đặt tên.
-
Ông chủ nầy là cái THỂ chưa bao
giờ sanh diệt nên Phật gọi là Trí-Tuệ-Phật.
-
Ông
chủ nầy là cái THẤY BIẾT thường
hằng của mỗi chúng sanh nên gọi là Tri-Kiến-Phật.
-
Ông chủ nầy là cái KHO chứa NHƯ-LAI
nên gọi là Như-Lai-Tạng.
-
Ông chủ nầy là cái THEÅ không bao
giờ đổi thay nên gọi là Pháp-Thân.
-
Ông chủ nầy là BỘ MẶT THẬT
của mọi người sẵn có nên gọi là Bản-Lai
Diện-Mục.
Phật
dùng kinh Hoa-Nghiêm để chỉ thẳng cái THẤY
cái NGHE của ḿnh qua Sáu Cửa (Lục-Căn):
Trong
cái nhà nhỏ có ngọn đèn thắp sáng.
Nhà có 6 cửa mở ra ngoài. Nếu đứng
ngoài nh́n xuyên qua 6 cửa th́ thấy ánh sáng có h́nh
vuông, h́nh dài, to, nhỏ, khác nhau. Sự khác nhau
đó là do cái cửa h́nh dáng khác nhau. Ngược
lại, nếu đứng trong nhà nh́n ra ngoài
th́ sẽ thấy
tất cả cảnh vật bên ngoài mà không nh́n
thấy cái đèn. Do
đó mà Phật mới nói: “Từ một cái
trong sáng sanh ra 6 cái ḥa-hợp
“TỪ
NHỨT-TINH-MINH SINH LỤC-H̉A-HỢP”. Đây
Phật muốn nói Như-Lai-Tạng (hay Chơn-Tâm)
đă có sẵn trong người mới sanh ra 6 cái
hoà-hợp (Tai, Mắt, Mũi, Lưỡi, Thân và Ư).
Nơi 6 cái hoà-hợp đó đều có mang
ánh-sáng của cái Tinh-Minh mà ta chưa thấy
đúng. Cái Tinh-Minh đó dụ cho cái ĐẠO,
c̣n 6 cái ḥa-hợp là các Tôn-giáo. Do đó
mà kinh Đại-Thừa Phật-Giáo khuyên:”Nên xây
đầu trở lại là sẽ thấy Niết-Bàn”
(Hồi đầu
thị ngạn). Thế nên, chỉ có:
-
Xây đầu ra ngoài là “BỜ MÊ”, quày
đầu lại là “BẾN GIÁC”
-
Xây
đầu ra ngoài là BỘI-GIÁC HIỆP-TRẦN,
quay đầu trở lại là BỘI-TRẦN
HIỆP-GIÁC.
Ơn
Trên đă dạy về hai danh-từ “CAO-ĐÀI
TÔN-GIÁO và CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO”
như sau:
1/-
Mở đầu bài kinh Nhựt-Tụng bằng câu:
“Đạo gốc bởi ḷng thành tín-hiệp”.
Đạo
là danh-từ – Ḷng thành tín-hiệp là hành-động
V́
mỗi việc làm đều có cái
Lư của nó. Ví như:
A/-
Người bịnh đau cần thuốc; Bịnh là
điểm tựa, Thuốc là cứu-cánh. Nếu
thuốc không trị được cơn bịnh th́
thuốc không c̣n có ư-nghĩa ǵ cả.
B/-
Đói ḷng nhờ cơm; nếu cơm thiêu, cơm
hẩm th́ không giúp ǵ được cho người
đói. Vậy cơm đâu c̣n có ư-nghĩa ǵ
nữa.
C/-
Đạo, nếu
thiếu ḷng thành, thiếu tín-nhiệm,
thiếu đức-tin, thiếu hiệp-ḥa
th́ đừng nói đến đạo-đức
làm ǵ. Vậy Đạo là ǵ? Đạo
là bản-thể của vũ-trụ tối-cao
tối-thượng, và Đạo cũng là
nguồn sống của Vạn-Linh. Do đó mà
các bậc Thánh-Triết Hiền-Nhơn Quân-Tử
mới dám xả-thân cầu Đạo, đem
tín-ngưỡng, hành-động nghĩa-nhân đạo-đức
để gây uy-tín trong nhân-gian hầu đem họ
hiệp về con đường Đạo là
Nguồn-Sống. Nếu ḷng không thành, tâm
bất chánh th́ làm sao ai dám đến hiệp
với ḿnh. Mà không ai hiệp với ḿnh th́ làm sao
gọi họ về với Đạo, để
trở lại Bổn-Nguyên?
(Đông-Thắng
Chơn-Như – 18/8 Bính Ngọ 02-10-66)
2/-
Người tắm nước biển là người
đă tắm nước sông.
Nước
biển tượng trưng cho Đạo, nước
sông ví như các tôn-giáo. Khi nước c̣n
ở sông th́ có ḍng trong ḍng đục, mặn
ngọt khác nhau, nhưng khi đă đổ về
biển cả th́ chỉ c̣n có một vị
mặn, đó là T́nh-Thương Đại-Đồng.
V́ Đại-Đồng nên không thay đổi.
Thế nên giáo-lư Đại-Đạo và người
hành-đạo cũng thế:
Một
nguồn chia xẻ đến muôn sông,
Ngọt
mặn, đục trong, khắp mấy ḍng;
Khi
nước trở về nơi biển cả,
Chỉ
c̣n sắc tánh biển mênh-mông.
(Vân-Hương
Thánh-Mẫu – 14/5 Bính-Ngọ 02/7/66)
3/-
Đạo Cao-Đài vừa là Tôn-Giáo mà
cũng vừa là Đại-Đạo. Là v́ Tôn-giáo
th́ có nhiều, c̣n Đại-Đạo th́ chỉ
có “Một” v́ bản-tánh là Đồng-Nhứt.
Nói cách khác:
-
Đại-Đạo
là MỘT, v́ đối chứng với “Nhứt-Bản”
-
Tôn-giáo
th́
có nhiều, v́ “Tán Vạn Thù”
Do
đó mà Đại-Thừa Chơn-Giáo, trang 99 có câu:
“Luận
qua Ngoại-Giáo Công-Truyền,
Phổ-Thông
Chơn-Lư Đạo huyền độ nhơn.
Dạy
người chí chánh, chí chơn,
Vẹn
toàn trung-hiếu nghĩa-nhơn hiền lành”
Đó
là giai đoạn “Tán Vạn Thù”. V́ có Tán
Vạn Thù nên mới có cơ Phổ-Độ.
Nhưng đến:
“Chừng
nào quả măn công viên,
Bữu-phang
chực rước, thiêng-liêng trở về”
Đây
là giai đoạn “Qui-Nhứt-Bản” hay “Phối-Thiên”
Tóm
lại, Đạo Cao-Đài gồm đủ hai h́nh-thức:
1/-
H́nh thức hữu-vi:
Gồm
có Lễ Nghi, Thờ Cúng, Công Quả, Công-Tŕnh,
lệ thuộc vào H́nh thức bên ngoài
(Exoterisme). Đó là về phần Tôn-Giáo Cao-Đài
hay là Phần Phổ-Độ, mà các hàng Thiên-Phong
Tiền-Bối dày công khai sáng nền Đạo
từ h́nh-thức đến sự truyền-thọ
giáo-lư, qui-điều.
B́nh
tâm mà suy cạn, việc hành-Đạo của
các giới tu-hành cũng như việc thành-công trên
đường đời, họ đă trải qua
biết bao khổ cực, phải khắc-kỷ
mới làm chủ bản tâm, chấp nhận bao
gian-lao của ngoại cảnh như vậy, bao
lần thử thách. Nhưng nào ai hiểu nổi tâm
của quí vị đó. Đôi khi họ cũng chùn
chơn chán năn muốn buông xuôi sự-nghiệp
tinh-thần đă dày công xây dựng, thế mà
nội-tâm không cho phép họ “bán đồ nhi
phế” và những lời dạy bảo của
Ơn-Trên qua Thánh-Ngôn Thánh-Giáo là những giọt nước
cam-lồ đă hồi sinh cho kẻ lữ-hành trên
đường Thiên-Lư là nhờ tấm ḷng cương-quyết
gạt bỏ mọi thị phi, sự vật
chỉ là sự vật, nội-tâm là nội-tâm.
Đạo-pháp
trường lưu mà giai đoạn của
cuộc đời là những khúc sông vắn dài
trong đục. Người thủy thủ đang lái
con thuyền Phổ-Độ từ trên ḍng sông
Đạo-Pháp, dầu muốn hay không cũng
phải vượt cho qua hết khúc sông hiểm
trở, voi vịnh uốn quanh, để xuôi về
biển cả là trở về bến “Khởi
Nguyên” (ĐẠI-ĐẠO). Muốn được
vậy, không phải một sớm một chiều mà
có thể thành công. Nhưng trong cuộc sống an lành,
với mối quan hệ chằng-chịt nhau, mỗi
người nương tựa và chịu ảnh hưởng
của nhiều người. Do đó mà Tôn-Giáo Cao-Đài
là nhịp cầu thông cảm, để từ đó
ta vượt khỏi trần gian tiến về nơi
vĩnh-cửu là CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO.
Chính
v́ chưa vượt khỏi trần-gian nên Tôn-giáo
Cao-Đài cần cô-động lại trong
lễ-nghi phong-tục. Nhưng không phải v́ đó
mà ta đành an-phận thủ-thường với câu
kinh tiếng kệ cho qua ngày đoạn tháng.
2/-
H́nh thức vô-vi:
Đời
là một “cuộc đi t́m” hơn là “t́m
thấy”. Vậy
kẻ lữ-hành (con người tôn-giáo) đi t́m cái
Tuyệt-Đối và chỉ hoàn-toàn thỏa-măn (Đắc-Nhứt)
khi đă đạt được cái Tuyệt-Đối
(ĐẠO).
Một
việc làm trong thời-gian trước, ta cho là
đúng, nhưng với hiện-tại nó đă sai
rồi. V́ vô-minh nên phải đi t́m để học
và sửa (tu hành).
Nếu
đă t́m thấy th́ cần ǵ phải đi t́m cho
uổng công.
Nếu
cuộc đời đă thực-hiện hoàn-toàn
rồi th́ không c̣n vấn đề đi t́m chơn-lư
nữa.
V́
kinh-nghiệm sai lầm sa-ngă trong cuộc sống
hằng ngày mà ta c̣n phải đi t́m.
Ví
như người lữ-hành chưa nhận thấy
đích nên vẫn c̣n phải t́m hướng đi.
Đức
Giáo-Tông đă dạy: “Gầy dựng
khởi-thỉ cho một tổ chức, tuy là khó nhưng
sự nuôi dưỡng liên-tục và Phát-triển
điều-ḥa cho đến ngày thành-công đắc-quả
lại càng khó khăn trăm muôn lần….”
(Tây-Thành Thánh-Thất
– 13/3 Canh-Tuất – 15/4/70)
Nếu
h́nh thức Tôn-Giáo đă thể-hiện được
Tâm-Đạo là tự xả-thân, nếm đủ
mùi cay đắng mặn lạt của
trần-cảnh, nhưng khi đă lên đến
tột đỉnh rồi nh́n lại bao cảnh âm-u
khổ-cực đều tan biến, v́ ngọn tâm-đăng
của mỗi người đều được
sáng tỏ (Cao-Dài Đại-Đạo) mà
Đức mẹ DIÊU-TR̀ đă dạy:
“Các
con đă thắp được ngọn đèn Chơn-Lư
(Cao-Đài Đại-Đạo) để soi vào
thế-giới âm-u tội lỗi, nhưng tiếc v́
những ngọn đèn ấy quá ít và quá nhỏ nên
chưa đủ ánh-sáng soi rọi giữa đêm trường
tối tăm dày đặc. Cũng như t́nh-thương
đồng-đạo, đồng-bào, đồng-chủng
các con đă có, nhưng t́nh thương ấy
bị giới-hạn trong những dấu chân trâu,
thế nên chưa ḥa-đồng lẫn nhau giữa
các dấu chân nầy và dấu chân khác. Những hột
muối t́nh-thương (ĐẠO) của các
con c̣n nhỏ quá,
trong lúc ao hồ sông rạch (Tôn-Giáo) nước
loăng mênh-mông, thế nên vị muối (ĐẠO)
không c̣n nguyên chất của nó. Các con có hợp-đoàn
hướng-thiện, hợp-quần để
xiển-dương đạo-lư mới đem
lại sự kiến-hiệu của vấn đề.”
(Rằm tháng 6 Tân-Hợi, 5/8/71)
Điểm
then-chốt của Cao-Đài Tôn-giáo là thực
hiện chữ H̉A để thể-hiện
T̀NH-THƯƠNG.
Đó
là CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO.
Kết
luận
Kể
từ khi gần gũi với câu kinh tiếng kệ,
từ cơ Phổ-Độ xuyên qua Thánh-Ngôn
là những sứ-điệp truyền đạt
để sau nầy noi theo đó mà ǵn-giữ Chơn-Truyền,
người tín-đồ Cao-Đài bắt đầu
có niềm tin và triển-khai phần triết-lư để
t́m hiểu giá trị của đàn cơ. Thiết
nghĩ người Cao-Đài cần sớm đưa
ra một thực-nghiệm tâm-linh để suy
diễn thành một hệ-thống triết-học xuyên
qua những lời vàng tiếng ngọc của cơ-bút
mà ḿnh đă được hun-đúc và giáo-hóa.
Đây là giai đoạn mà người tín-đồ
cần tô-điểm cho cây Đại-Đạo Cao-Đài
được sum-suê những hoa quả sinh tươi
để khỏi phụ công khai-hóa bằng cách
thờ phượng Thượng-Đế ngay trong
Linh-Đài của tâm-hồn ḿnh để được
sống kết-hợp với Trời, với Đạo
từ khi c̣n ở dương trần nầy. V́
nhiều lần Thượng-Đế đă dạy các
tín-đồ phải biết tiến-tu từ phần
THẾ-PHÁP (Exoterisme) về phần BÍ-PHÁP
(Esoterisme), nói cách khác, phải dùng h́nh-thức
thờ phượng bên ngoài “Cao-Đài Tôn-Giáo”
làm phương tiện để tiến lần
về phần tu tiến bên trong “Cao-Đài Đại-Đạo”.
Đó
cũng gọi là chấp SỰ để tầm cái
LƯ của người xưa.
Chỉ
có cái xây lưng mà MÊ hay NGỘ là tại
đó. Nhưng tiếc v́ từ nhỏ đến
giờ ta đều xây mặt vào trong để
thấy những cái: vui, buồn, hờn giận, ghét
ghen, toàn là trần-cảnh bên ngoài.
Tệ-hạ
mong sao người đọc b́nh-tâm suy-gẫm
rồi sẽ thấy giáo-lư Đạo sẽ làm sáng
tỏ thêm bước đường “Chơn-tu hành-đạo”
trước mắt của ḿnh.
NAM
MÔ CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐẠI-BỒ-TÁT MA-HA-TÁT.
|