Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
Chương VI TƯ
TƯỞNG TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN CỦA DÂN TỘC
VIỆT NAM QUA CÁC THỜI ĐẠI LÊ ANH DŨNG
Ngay
từ thế kỷ II, tư tưởng Tam giáo đồng
nguyên đă xuất hiện ở Việt Nam, mà bấy
giờ tên gọi là Giao Chỉ Bộ (từ năm 111 trước
công nguyên) rồi là Giao Châu (từ năm 203). Giao Chỉ
thời Sĩ Tiếp (sử Việt Nam viết là Sĩ
Nhiếp) là nơi giao lưu văn hóa Việt-Ấn-Hán,
là nơi hội tụ và dung ḥa các luồng tư tưởng
Ấn-Hán (Phật, Nho, Đạo) với văn hóa
bản địa. Một
bằng chứng là MÂU BÁC, cũng gọi Mâu tử (sinh
khoảng năm 165 hay 170, mất khoảng 230). Ông tên là
Dung, tự Tử Bác, người gốc Thang Ngô (Thương
Ngô), Giao Chỉ,. từ Trung Quốc sang Việt Nam tỵ
loạn vào thế kỷ II, tài kiêm văn, vơ. Về văn,
ông viết Lư hoặc luận
nổi tiếng. Lúc đầu nhan đề tác phẩm này
là Trị hoặc luận,
nhưng từ đời Đường Cao tông (tức Lư
Trị, tại vị 650-633) v́ kiêng húy của Lư Trị mà
tác phẩm đổi nhan đề thành Lư
hoặc luận. Lê Mạnh Thát khẳng định sách
này được viết khoảng năm 198. Trong
Lư hoặc luận, Mâu tử cho biết: sau khi mẹ
mất, không muốn làm quan, ông đắm ḿnh học Tam
giáo. “Từ đó, dốc chí
vào đạo Phật, gồm ngẫm Lăo tử năm ngàn
chữ, ngậm huyền diệu làm rượu ngon, xem Ngũ
kinh làm đàn sáo.” [1] Điều này cho thấy
rằng Tam giáo đă hiện diện đề huề
trong thời Sĩ Tiếp làm thái thú Giao Chỉ. Tinh
thần ḥa đồng từ buổi ban sơ đó đă
là yếu tố để tư tưởng Tam giáo đồng
nguyên trở thành một nét bản sắc văn hóa
truyền thống của dân tộc Việt Nam trong
những thế kỷ sau, được nhiều danh gia phát
biểu qua các triều đại. Sau đây là một
số trường hợp tiêu biểu: 1. VIÊN CHIẾU (999-1091). Viên
Chiếu sống dưới đời Lư, thế danh là
Mai Trực, quê làng Phúc Đường, huyện Long Đàm,
là thiền sư đời thứ bảy ḍng thiền
Quan Bích (Việt Nam). Tác phẩm của ông có: Dược
Sư thập nhị nguyện văn, Tán Viên giác kinh,
Thập nhị bồ tát hành tu chứng đạo tràng,
Tham đồ hiển quyết.[2] Khi
được hỏi về ư nghĩa của Phật và
Thánh (Nho), Thiền sư Viên Chiếu đáp: Trú
tắc kim ô chiếu, Dạ lai ngọc
thố minh.[3] (Ngày
th́ mặt nhựt sáng soi, Đêm
về vằng vặc khung trời ánh trăng.) Sư
ngụ ư bảo tuy ứng dụng của Phật và Thánh
(Nho) trong đời khác nhau, nhưng đều nhằm
đem lại cho đời ánh sáng (giác ngộ), ví như
ngày cần ánh sáng mặt trời (kim
ô: quạ vàng), đêm cần ánh sáng vầng trăng (ngọc
thố: thỏ ngọc). 2. TRẦN THÁI TÔNG
(1218-1277). Vua
tên thật là Trần Cảnh, quê làng Tức Mặc,
phủ Thiên Trường (huyện Mỹ Lộc, tỉnh
Nam Định sau này). Tác phẩm có: Kiến
trung thường lễ, Quốc triều thông chế, Khoá
hư lục...[4]. Khi
viết bài Tựa cho Thiền tông chỉ nam, vua ám chỉ rằng trách
nhiệm độ đời của Phật hay Nho vẫn
là một: “Lục
tổ có nói: ‘Bậc đại thánh và đại sư
đời trước không khác ǵ nhau.’ Như thế
đủ biết đại giáo lư của đức
Phật ta lại phải nhờ tiên thánh mà truyền
lại cho đời.” [5] Trong
bài Phổ khuyến phát bồ
đề tâm, vua viết: Vị
minh nhân vọng phân Tam giáo, Liễu đắc để
đồng ngộ nhất tâm.[6] (Chưa
tỏ ngộ, người đời lầm lẫn phân
biệt Tam giáo, Khi
đạt chỗ gốc cội rồi th́ cùng ngộ
một tâm.) Trong
bài Tọa thiền luận,
vua so sánh Tam giáo về pháp môn tu luyện và nêu lên sự
tương đồng như sau: “Thích-ca
Văn phật vào núi Tuyết sơn, ngồi ngay ngắn
trong sáu năm, chim bồ các làm tổ trên đầu,
cỏ mọc xuyên qua bắp vế mà thân tâm vẫn b́nh
thản. Tử Cơ [Đạo gia] ngồi tựa ghế, thân như cây khô, ḷng như
tro nguội. Nhan Hồi [Nho gia]
ngồi quên, chân tay rời ră, thông minh dẹp bỏ, ĺa
xa cả trí cả ngu để ḥa chung với Đạo
lớn. Ba bậc thánh hiền của Tam giáo đời xưa
đó đều nhờ ngồi định mà có thành
tựu.” [7] Tuyết
sơn tức là Hy-mă-lạp-sơn (Himalayas). Chim bồ các
có sách dịch là chim thước, hoặc dịch là chim
khách. Tử Cơ tức là Nam Quách Tử Cơ, được
chép trong Nam hoa kinh của
Trang tử. Trong
bài Giới sát sinh văn,
vua nêu lên chỗ tương đồng của Tam giáo
về mặt hành thiện: “Sách
Nho dạy làm điều nhân đức, kinh Lăo dạy thương
yêu người và vật, Phật chủ trương hăy
giữ ǵn giới cấm sát sinh…” [8] 3. HƯƠNG
HẢI (1631-1718). Thiền
sư thế danh là Tổ Cầu, người làng Áng
Độ, huyện Chân Phúc (sau là huyện Nghi Lộc,
tỉnh Nghệ An). Lúc đầu ông làm tri phủ
Triệu Phong (sau là tỉnh Quảng Trị), đời
Hậu Lê, rồi tu ở cù lao Chàm (Quảng Nam), hiệu
Huyền Cơ Thiện Giác, pháp tự là Minh Châu Hương
Hải, trứ tác nhiều.[9] Trong
một bài thơ Sư viết: Nguyên
lai Tam giáo đồng nhất thể.[10] Như vậy,
Sư khẳng định Tam giáo cùng một bản
thể, nghĩa là cùng một nguồn gốc phát sinh. So
sánh Nho với Phật, ở một bài thơ khác, Sư
kết luận: Nho
nguyên đăng đăng đăng di khoát, Pháp hải trùng trùng
nhập chuyển thâm.[11] (Nguồn
Nho bát ngát lên thêm rộng, Biển
Phật trùng trùng vào càng sâu.) Trong
bài Lư sự dung thông,
Thiền sư Hương Hải đă lấy h́nh ảnh
xe, thuyền làm ví dụ để so sánh hai khía cạnh
phương tiện và công dụng của Tam giáo trong
đời. Sư kết luận Tam giáo ví như ba cỗ
xe cùng đi đến một đích. Đối chiếu
ba cặp phạm trù tam cương,
ngũ thường (của Nho) với tam
nguyên, ngũ khí (của Lăo), và với tam
quy, ngũ giới (của Phật) Sư có bài thơ
hay như sau: Trong
nơi danh giáo có ba, Nho hay giúp nước,
sửa nhà, trị dân. Đạo thời dưỡng
khí an thần, Thuốc trừ tà
bệnh, chuyên cần luyện đan.[12] Thích độ nhân
miễn tam đồ khổ,[13] Thoát cửu huyền
thất tổ siêu phương. Nho dùng tam cương,
ngũ thường, Đạo ǵn ngũ khí,
giữ giềng ba nguyên. Thích giáo nhân tam quy, ngũ
giới, Thể một đường
xe phải dụng ba.[14] 4. LÊ QUƯ ĐÔN (1726-1784). Ông
tự Doăn Hậu, hiệu Quế Đường, quê làng
Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ. Ông làm quan đời
Hậu Lê, giữ lần lượt giữ nhiều
chức vụ quan trọng. Tác phẩm rất nhiều, riêng
khảo về đạo Nho có: Quần
thư khảo biện, Thánh mô hiền phạm lục, Âm
chất văn chú, Vân đài loại ngữ, Xuân thu lược
luận, Dịch kinh phu thuyết, Thư kinh diễn nghĩa
… Trong
tác phẩm Kiến văn
tiểu lục, quyển IX: Thiền
dật, Lê Quư Đôn đă bày tỏ ḷng tôn kính Tam giáo
b́nh đẳng và khuyến cáo một số nhà nho
thiển cận như sau: “Đạo
giáo của họ Phật, họ Lăo thanh tĩnh hư vô,
cao siêu tịch diệt, không hệ lụy đến
sự vật, đấy cũng là đạo giáo của
bậc cao minh dùng để tu dưỡng bản thân;
đến những lời bàn luận sâu rộng về
đạo đức, về h́nh thần, không điều
ǵ là không có ư nghĩa mầu nhiệm. Nhà nho chúng ta,
cứ giữ thành kiến kia khác, thường thường
bác bẻ, như thế có nên không?” [15] 5. NGÔ TH̀ SĨ (1726-1780). Ông
là cha của Ngô Th́ Nhiệm, nhạc phụ của Phan Huy
Ích. Ông tự là Thế Lộc, hiệu Ngọ Phong Tiên
sinh, đạo hiệu Nhị Thanh Cư sĩ. Ông làm quan
đời hậu Lê, trứ tác nhiều tác phẩm như:
Ngọ Phong văn tập,
Bảo chướng hoành mô, Anh ngôn thi tập, Việt
sử tiêu án, Quan lan thập vịnh, Nhị Thanh động
tập... Cùng các con, ông hợp thành Ngô gia Văn phái.[16] Năm
1760, nhân trùng tu chùa Tam giáo (làng Kim Bảng), Ngô Th́ Sĩ
làm bài văn bia nêu lên ư kiến của ông về Tam giáo
như sau: “Lời
khuyên về tịnh độ của nhà Phật, lời bàn
về cảnh tiên của nhà Đạo, thuyết tích
chứa điều lành có thừa điềm tốt
của nhà Nho, thảy đều đúng cả. Đạo
Phật chủ trương từ bi, Đạo gia thanh
tịnh, Nho gia lấy thuyết nhân nghĩa, trung chính
mở đường cương thường của
Trời để dựng nên một trật tự cho người.
Điều thiết yếu là hợp thế giới
hữu h́nh vào một hư không siêu h́nh, thu tất
cả thiên h́nh vạn tượng khác nhau vào một
chỗ nhất quán. Nhập thế và xuất thế, tác
dụng khác nhau mà thể tính th́ cũng một. Tôi cho
rằng đạo lư chỉ có một mà thôi. Tự do, sáng
suốt, không có phân chia đạo nọ đạo kia
vậy. Liễu ngộ chỉ có bản tính yên lặng,
giữ lấy chỉ là tâm. Chỗ tịch diệt
của Như lai, chỗ hư vô của Lăo quân, chỗ không
muốn nói của Phu tử đều là gom cái tâm ḿnh
về chỗ chánh mà thôi.” [17] Ngoài
bài văn bia trên, xu hướng đề cao Tam giáo cùng
một nguồn của Ngô Th́ Sĩ c̣n bộc lộ trong
các bài Kư động Nhị
Thanh, Sớ hợp Tam giáo… [18]
6. NGÔ TH̀
NHẬM (1746-1803). Ông
người làng Thanh Oai, huyện Thanh Tŕ, tỉnh Hà Đông,
là con của Ngô Th́ Sĩ, tự Hi Doăn, hiệu Đạt
Hiên, lại có hiệu Hải Lượng Thiền sư.
Làm quan hai đời Hậu Lê và Tây sơn, giữ
nhiều chức vụ quan trọng. Ông
cũng chủ trương Tam giáo một nguồn (nhất
nguyên), và bày tỏ quan điểm của ông trong các tác
phẩm như Thiên quân thái nhiên,
bài Kư đ́nh Thủy Nhất…
[19] 7. PHAN HUY ÍCH
(1750-1822). Ông
là con rể Ngô Th́ Sĩ, em rể Ngô Th́ Nhiệm. Ông
tự Chi Ḥa, hiệu Dụ Am và Đức Hiên. Làm quan
chức hàn lâm thừa chỉ, đốc đồng Thanh
Hóa, v.v... Đời Tây Sơn, ông làm tả thị lang
Bộ Hộ, tước Thụy nham hầu, đi sứ
Trung Quốc về thăng thị trung ngự sử. Ông
lập Bảo chân quán để tu dưỡng. Trứ tác
nhiều. Phan Huy Ích cũng theo thuyết Tam giáo một
cội nguồn. Năm 1796, khi viết lời Tựa
cho tác phẩm Trúc Lâm đại
chân viên giác thanh của Ngô Th́ Nhậm, ông bày tỏ
quan điểm của ông về Tam giáo như sau: “Giáo
lư Thích-ca tuy nói là không tịch hư vô, nhưng đại
yếu vẫn là trừ
bỏ hết mọi chướng lũy, thấy rơ chân như.
Cho rằng ‘minh tâm kiến tính’ là việc cần kíp
nhất, nếu đem so sánh với học thuyết ‘thành
ư trí tri’ của nhà Nho ta, thật chẳng có ǵ là trái
ngược.” Do cùng quan điểm với Ngô Th́ Nhậm nên
trong bài Tựa nói trên, Phan Huy Ích đă ca ngợi Ngô Th́
Nhậm: “Tận
tính nhi cùng lư (thấu triệt được thiên tính,
hiểu rơ được đạo lư), khu
Thích dĩ nhập Nho (đưa đạo Phật vào
đạo Nho), ông đă khiến cho tám bộ Phạn vương
(Phật) không ra ngoài cung tường của Tố vương
(Khổng tử).” [20] 8. TRỊNH
TUỆ (thế
kỷ XVIII). Trịnh Tuệ thi đậu trạng nguyên, làm
quan tể tướng thời vua Lê chúa Trịnh. Ông
vẫn xưng là Trúc Lâm Cư sĩ. Tŕnh bày quan niệm
Tam giáo một nguồn, trong bài Tam
giáo nhất nguyên thuyết, có
đoạn ông viết: “Nhà
Nho có tam tài, nhà Phật có tam thế, nhà Đạo có tam
thanh, cũng chẳng khác ǵ
trời có mặt trời, trăng, sao, như vạc ba chân,
quan hệ mật thiết với nhau và không tách rời
nhau được. Nói cho rơ là lễ nhạc, h́nh, chính
của nhà Nho dùng để ngăn ngừa ḷng người
khiến cho người ta xu hướng về điều
thiện và cấm chỉ các điều ác, xa rời cái
xấu và tăng thêm cái đẹp, hiển nhiên là như
vậy. Thanh tĩnh, từ bi của nhà Phật, trừ
bỏ nghiệp chướng cứu người độ
vật, cùng đi đến chỗ giác ngộ, th́ đó
lại là uyên vi trong uyên vi. Nhà Nho chủ trương
chỉnh đốn luân thường, duy tŕ giáo hóa, làm
cho người ta đổi thói bạc làm thói hậu,
bỏ điều bạo chăm điều nhân. Đó là
công việc rơ ràng. Nhà Đạo chủ trương
rửa sạch lụy trần, từ bỏ tham dục, vượt
cơi phàm vào cơi thánh, cùng chung duyên lành th́ đó lại là
huyền diệu trong huyền diệu. Sách Đại
học nói ‘Sáng tỏ đức ḿnh, làm mới đức
dân, dừng ở chỗ chí thiện.’ Kinh Phật nói
‘Bát nhă ba la mật’, nói ‘Bồ đề tát đóa’,
nói ‘Ma ha tát’. Về ư nghĩa, hai đằng có trái ngược
nhau đâu … Cho nên Tam giáo vẫn là một môn, ba ḍng
vẫn là một lư, vốn không phải như nước
lửa, đen trắng, ngọt đắng có tính chất
chống lại nhau … Thế mới biết Nho tức là
Thích mà Thích tức là Nho. Đạo cũng là Nho mà Nho cũng
là Đạo.” Cuối bài, Trịnh Tuệ kết luận: Ai hay Tam giáo bất đồng, Thích Ca, Lăo Tử cùng ḍng Nho Gia.[21] 9. TOÀN NHẬT (1750?
-1832?). Thiền sư sống khoảng đời Tây Sơn.
Sư coi Tam giáo cũng chỉ một nhà, tuy công dụng
ở đời có khác nhưng lại hỗ trợ cho
nhau trong việc giáo hóa, cứu độ, trị an dân chúng.
Sư ví Tam giáo như ba ngả đường mà cùng
dẫn về một đích điểm. Sư c̣n quan
niệm Tam giáo không thể thiếu một, v́ thiếu
một th́ sẽ nguy hiểm, cũng như chiếc
vạc phải đủ ba chân, bầu trời phải
đủ mặt trời, mặt trăng và các v́ sao (tam
quang: nhật, nguyệt, tinh). Xă hội phải vững
vàng ba mối giềng trung chánh giữa quan hệ của
bậc trị nước với dân, giữa cha với
con, giữa vợ với chồng (tam cương:
quân thần cương, phụ tử cương, phu thê cương). Trong tác phẩm Hứa
Sử truyện văn, Thiền sư Toàn Nhật mượn
lời Diêm vương nói với thầy tăng Hứa
Sử để gián tiếp bày tỏ quan điểm
của Sư đối với Tam giáo như sau: Phép xưa gầy dựng roi
truyền, Nho ra sửa trị đời nên thanh b́nh. Thích ra độ tử cứu sinh, Đạo ra tẩn diệt mị tinh yêu tà. Thánh hiền phân chế làm ba, Tam giáo so lại nhất gia khác ǵ. Cùng nhau tá trợ pḥ tŕ, Ra đời giáo hóa ích th́ lợi dân. Cũng như vạc có ba chân, Trên trời th́ có tam quang tỏ tường. Trong đời th́ có tam cương, Nếu mà khuyết một ghê đường
gian nguy. Nói cho Thầy rơ kẻo nghi, Đường tuy ba ngả cùng về một nơi.[22] Trong tác phẩm Tam giáo
nguyên lưu kư, Thiền sư viết: Cho nên Tam giáo Thánh nhân, Tùy cơ thuyết pháp, ứng thân cứu nàn. Hễ trời th́ có tam quang, Đời có Tam giáo ba giềng tương thân. Ví như cái vạc ba chân, Nếu mà khuyết một ngả nghiêng đâu c̣n. Vật trong vạc ấy chẳng toàn, Ắt là trút đổ chỉn liền hư hao. Nho gia tỏ rơ như sao, Chói ḷa tinh đẩu ai nào chẳng hay. Đạo gia dường nguyệt tṛn thay, Bắc nam ánh giải, đông tây sáng ngời. Thích gia ví tợ mặt trời, Đâu
đâu soi thấu đời đời quang minh.[23] 10. GIÁC LÂM (thế
kỷ XIX). T́ Kheo Giác Lâm sống dưới triều Minh
Mệnh (1820-1841), tu ở chùa Hồng Phúc, phủ Hoài
Đức, tỉnh Hà Đông. Sư sáng tác Hồng mông Tạo hóa chư lục bản hạnh
(gọi tắt Hồng mông hạnh), trong
đó đă nhận định về Tam giáo như sau: Ba đạo cây cối
một nhà, Chi chi diệp diệp hằng hà vô biên. Những người thiểu học thất
truyền, Ngỡ
là Nho giáo, Phật, Tiên khác ḍng.[24] 11. NGUYỄN
Đ̀NH CHIỂU (1822-1888). Ông hiệu Trạch Phủ, quê làng Tân Khánh,
huyện B́nh Dương, tỉnh Gia Định. Bị mù,
ngồi nhà dạy học, nên c̣n được gọi là
Đồ Chiểu. Sau về Ba Tri, tỉnh Bến Tre
dạy học, bốc thuốc. Tác phẩm chính gồm có:
Lục Vân Tiên, Dương Từ Hà Mậu, Ngư
tiều y thuật vấn đáp. Trong truyện thơ Lục
Vân Tiên Nguyễn Đ́nh Chiểu đă sáng tác ra chàng
Nho sinh họ Lục rất đặc biệt. Câu 9-12 tả họ Lục xuất thân từ
cửa Khổng sân Tŕnh, theo nghiệp Nho gia: Đặt tên là Lục Vân
Tiên, Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành. Theo thầy nấu sử sôi kinh, Tháng ngày bao quản sân Tŕnh lao đao. Sau khi thọ nạn, mù mắt, chàng thư sinh
họ Lục nương thân cửa chùa (Phật) và
được ông tiên (Lăo) ban thuốc tiên chữa cho
mắt được sáng lại. Câu 1665-1668 tả: Đoạn này tới
thứ ra đời, Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền. Nửa đêm nằm thấy ông tiên, Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra. Như vậy, dù Nguyễn Đ́nh Chiểu không
phát biểu về Tam giáo đồng nguyên hay đồng
tông, tác giả qua cách hư cấu một truyện thơ
đă cho thấy tinh thần Tam giáo đề huề, không
có giới hạn, thành kiến, ngăn ngại. • Tóm lại trải qua các triều đại,
trong mười chín thế kỷ, tuy sử sách không c̣n lưu
giữ được nhiều, nhưng bằng những tư
liệu văn học c̣n sưu tập được,
với các tác giả tiêu biểu, đă thấy rơ
rằng ở Việt Nam đă được xác lập
sớm và rất lâu dài các quan điểm trong sáng
về: - Tam giáo đồng nguyên hay Tam giáo nhất nguyên
(cùng một nguồn phát sinh), - Tam giáo đồng tông (cùng một ông tổ
sinh ra), - Tam giáo nhất gia (cùng một nhà), - Tam giáo đồng quy (cùng đi về một
đích). Các dẫn chứng văn học trên đây cũng
cho thấy từ xưa dân tộc Việt Nam đă
biết đối chiếu Tam giáo để t́m đến
chỗ đồng nhất lư. Trong khi đó ở châu Âu,
măi đến nửa cuối thế kỷ XX người
ta mới biết đến khoa tôn giáo đối
chiếu (comparative religions), khởi sự từ năm 1939
tại Viện đại học Oxford, nước Anh. Nói cách khác, ở Việt Nam ngay từ xa xưa
đă sẵn có con đường Tam giáo đồng nguyên
để rồi sẽ dẫn đến hệ luận là
vạn giáo nhất lư. Nghiên cứu con đường Tam
giáo Việt Nam trong tinh thần đồng nguyên và
nhất lư cũng là để sau này góp phần t́m
hiểu diễn tŕnh Dịch hóa, chu nhi phục thủy:
Từ Đại đạo phát sinh Tam giáo đạo;
từ Tam giáo đạo trở về nguồn gốc
Đại đạo. LÊ
ANH DŨNG CHÚ THÍCH [1] Lê Mạnh Thát, Nghiên
cứu về Mâu tử. Tu thư Vạn Hạnh,
1982, tr. 133, 508. [2] Thơ văn Lư
– Trần. Tập I. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă
hội, 1977, tr. 266. [3] Thơ văn Lư
– Trần. Tập I, 1977, tr. 274, 281. [4] Trần Văn Giáp, T́m
hiểu kho sách Hán Nôm. Tập II. Hà Nội: Nxb Khoa
học Xă hội, 1990: tr. 56, 57. [5] “Lục tổ hữu ngôn vân: ‘Tiên đại
thánh nhân dữ đại sư vô biệt.’ Tắc tri ngă
Phật chi giáo hựu giả tiên thánh nhân dĩ truyền
ư thế dă.” Thơ văn
Lư – Trần. Tập II. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă
hội, 1989, tr. 26-27. [6] Thơ văn Lư
– Trần. Tập II, 1989, tr. 60, 62, 65. [7] “Thích-ca Văn phật nhập vu Tuyết sơn,
đoan tọa lục niên, thước sào vu đỉnh thượng,
thảo xuyên vu bễ, thân tâm tự nhược. Tử Cơ
ẩn kỷ nhi tọa, h́nh như khô mộc, tâm tự
tử hôi. Nhan Hồi tọa vong, huy chi thể, truất thông
minh, ly ngu trí, đồng ư Đại đạo.
Thử cổ giả Tam giáo thánh hiền, tằng dĩ
tọa định nhi thành tựu giả.” Thơ
văn Lư – Trần. Tập II, 1989, tr. 86-88. [8] “Nho điển thi nhân bố đức,
Đạo kinh ái vật hiếu sinh, Phật duy giới sát
thị tŕ…” Thơ văn Lư
– Trần. Tập II, 1989, tr. 93. [9] Lê Quư Đôn toàn
tập. Tập II: Kiến văn
tiểu lục. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă hội, 1977,
tr. 402-403. [10] Lê Quư Đôn toàn
tập. Tập II, 1977, tr. 409. [11] Lê Quư Đôn toàn
tập. Tập II, 1977, tr. 410. [12] Luyện đan:
Các đạo sĩ Lăo giáo nắm được bí
quyết ứng dụng lư thuyết âm dương, ngũ
hành để tu luyện ngơ hầu biến cải con người
từ phàm phu chịu sự chi phối của luật sinh
tử luân hồi trở thành bậc chân nhân siêu sinh thoát
tử. Họ tạo thành một trường phái thanh tĩnh
vô vi, chuyên luyện nội đan, tức là phái tu tiên, tu
chân. Phái này chủ trương bên trong thân người
đă sẵn có những yếu tố thần minh và
nếu biết khai phóng đúng phương pháp, con người
sẽ đạt được trường sinh bất
tử. Để luyện thuốc trường sinh bất
tử, họ chỉ sử dụng những vị
thuốc, dược liệu tạo hóa đă dành cho
mỗi người, ai ai cũng sẵn có trong thân (nội
dược). Đối lập với họ là phái ngoại
đan, chủ trương t́m kiếm các dược
liệu ở ngoài thân (ngoại
dược) để luyện thuốc trường
sinh bất tử; như từng dùng các chất độc
là ch́ (diên), thủy ngân (hống), chu sa (thần sa)... Chu,
thần và đan (đơn) đều là màu đỏ
thắm như son; sa là cát. Đạo Lăo có môn phái
thần tiên đan đỉnh dùng một thứ đá cát
quến thành cục (sa thạch), lấy tay bóp vụn ra thành
bột được. Đá cát này không mùi, vị
lạt, có màu đỏ thắm như son, nên được
gọi tên là chu sa, thần sa, đan sa. (Cũng có sách cho
rằng thần sa là chu sa của Thần châu.) Đông y
cho rằng chu sa có nhiều sắc đỏ khác nhau, càng
thẫm màu càng tốt. Để thử, lấy tay bóp chu
sa vụn thành bột, nếu màu đỏ không dính tay (không
ăn da), đó là loại hảo hạng. Chu sa (cinnabaris) là
hợp chất trong đó chứa 86,2% thủy ngân (Hg:
hydragyum) và 13% lưu huỳnh (S: sulfur). Khi đun chu sa, khí
độc SO2 bốc ra, c̣n lại thủy ngân cũng là
chất độc. V́ vậy, sách y cổ chỉ định
phải dùng chu sa sống (mài với nước, không
được đun nấu); những người lạm
dụng chu sa có thể hóa ra si ngốc. (Lê Anh Dũng, T́m
hiểu kinh cúng Tứ thời. Huế: Nxb Thuận hoá,
1995, tr. 82-83.) [13]
Tam đồ khổ: Cái
khổ khi bị hồn người chết phải đi
vào ba đường dữ để chịu h́nh phạt
đền bù tội lỗi. Đó là: Hỏa đồ
(bị lửa thiêu đốt); Huyết đồ (bị
sát hại và đổ máu); Đao đồ (bị dao
kiếm đâm vào cơ thể). [14] Nguyễn Đăng Thục, “Vạn
Hạnh với quốc học”, Tư
tưởng, số 1, năm thứ Tư. Sài G̣n:
Viện đại học Vạn Hạnh, 15-3-1971, tr. 26. [15] Lê Quư Đôn toàn
tập. Tập II, 1977, tr. 363. [16] Trần Văn Giáp, T́m
hiểu kho sách Hán Nôm. Tập I. Hà Nội: Nxb Khoa
học Xă hội, 1984, tr. 324. [17] “Thích gia tịnh thổ chi khuyến, Đạo
gia tiên đô chi đàm, Nho gia tích thiện dư khương
chi thuyết, giai thị dă. Thích từ bi, Đạo thanh
tịnh, Nho định dĩ nhân nghĩa, trung chính dĩ
khai Thiên thường nhi lập nhân kỷ. Yếu kỳ
hợp vạn hữu vu nhất hư, hội vạn thù vu
nhất quán. Kinh thế xuất thế, dụng dị nhi
thể đồng. Dư duy Đạo nhất nhi dĩ,
hoạt bát bát tĩnh tĩnh, vô bỉ thử dă. Liễu
ngộ vô phi tính, mặc thủ vô phi tâm. Như lai chi
tịch diệt, Lăo quân chi hư vô, Phu tử chi dục vô
ngôn dă, quy chính kỳ tâm nhĩ hĩ.” Nguyễn
Đăng Thục phiên âm theo bản chữ Hán trong
microfilm BEFEO A.364, số hiệu 569. [18] Theo Hà Thúc Minh. Xem Thơ
văn Ngô Th́ Nhậm. Tập I. Hà Nội: Nxb Khoa
học Xă hội, 1978, tr. 31. [19] Theo Hà Thúc Minh. Xem Thơ
văn Ngô Th́ Nhậm. Tập I, 1978, tr. 32. [20] Thơ văn Ngô
Th́ Nhậm. Tập I. Hà Nội: 1978, tr. 47-50. [21] Một số
vấn đề lư luận về lịch sử tưởng
Việt Nam. Hà Nội: Viện triết học, 1984, tr.
145. [22] Lê Mạnh Thát, Toàn
Nhật Thiền sư toàn tập. Tập I (ronéo). Viện Phật học Vạn Hạnh, 1979, tr. 189-190. [23] Toàn Nhật Thiền sư
toàn tập. Tập II (ronéo), 1979, tr. 22. [24] Nguyễn Văn Thọ, “Ít
nhiều cảm nghĩ suy tư về thiền học
Việt Nam”, nội san Cao Đài giáo lư
(ronéo). 15-02 Kỷ Mùi (1979). HẾT
CHƯƠNG VI Đôi ḍng sơ lược về tác giả Lê Anh Dũng |
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|