Gương hướng đạo chơn-tu
của Đức Trần Đạo Quang
Hành Sơn
Lời mở đầu
Đức Ngọc Chưởng Pháp
Trần Đạo Quang một bậc chân tu Thánh-Đức,
Ngài vốn là một vị Thái Lăo Sư phẩm vị
cao trong nhất của Đạo Tam-Giáo Minh-Sư, sắp
được thọ truyền Tổ-Ấn từ Trung-Hoa
th́ gặp lúc Đạo Cao-Đài ra đời. Đức
Cao-Đài Thượng-Đế giáng cơ khuyên Ngài qui
hiệp với Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
mở rộng đường phổ hóa để tận
độ nhân-loại buổi Tam-Kỳ Hạ-Ngươn
nầy. Ngài về với Đạo Cao-Đài được
Thiêng-Liêng phong Ngọc-Chưởng-Pháp một phẩm cao
trọng bậc nh́ trong Hội-Thánh Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ đầu tiên tại Ṭa Thánh
Tây-Ninh, trừ một phẩm đệ nhất là Giáo-Tông
đương thời là Đức Lư Thái Bạch.
V́ vậy toàn Bổn-Đạo Cao Đài và
Minh-Sư khắp hai miền Nam-Trung nước Việt không
mấy ai không hiểu biết và kính trọng Ngài. Mỗi
năm ngày 17 tháng 2 âm lịch khắp nơi trong toàn Đạo
đều có cúng giỗ kỷ niệm ngày đăng tiên
của Ngài, đặc biệt tại Linh-Quang-Tự
Tổ Đ́nh Đạo Minh-Sư của Ngài, nay các đệ
tử dời về Hốc-Môn và tại Hội-Thánh
Minh-Chơn-Đạo miền Hậu-Giang và Hội-Thánh
Truyền-Giáo Trung-Việt cử hành lễ kỷ niệm
trọng thể.
Mùa cúng giỗ của Ngài năm nay nghĩ t́nh Sư-Đệ,
v́ nghĩa vụ kẻ hậu sinh, nhân có chút th́ giờ
xin chép lại tóm lược về tiểu sử Ngài
những điều tôi đă hân hạnh ghi nhận
được, để góp phần sưu tầm Sử
Đạo tương lai và cũng để toàn thể
Đạo tâm chúng ta hiểu biết thêm về quá tŕnh
của một bậc Hướng-Đạo chân tu nêu gương
sáng lạng muôn đời.
Mười ba tuổi phát-tâm nhập Đạo.
Đức Ngọc-Chưởng-Pháp
Trần Đạo Quang tên thật của Ngài là Trần Văn
Quang, Ngài ra đời lúc b́nh minh, giờ Dần ngày
mồng 10 tháng 11 năm Canh Ngọ (1870) tại Ban Dầy,
quận Cai Lạy, tỉnh Định-Tường
(Mỹ-Tho) ( Lúc đi Trung-Kỳ truyền Đạo, Ngài
chưa có giấy thuế, phải lấy tên Hà Văn
Thuần của người trong làng xin căn cước
mới được ra Trung v́ vậy Ngài đứng tên
bất-động-sản tại Đà-Nẵng hay
những nơi khác là Hà Văn Thuần). Thân phụ Ngài
Cụ Ông Trần Chí Hiếu, thân mẫu Ngài là Cụ Bà Dương
Mỹ Hậu. Ngài sinh trưởng trong một gia đ́nh
nông nghiệp, lại là một người con độc
nhất nên cha mẹ rất quư yêu không cho đi xa,
mỗi lúc đi đâu phần nhiều dắt theo, nên Ngài
chỉ học được chữ Nho và Quốc-ngữ
các trường quanh làng. Tuy ít học nhưng bản
chất Ngài thông minh đĩnh ngộ từ tuổi
ấu thơ đă dày ḷng hiếu-kính cha mẹ, nhân-ái
đối với kẻ khó người nghèo chứng
tỏ đă có căn lành từ trước.
Thân sinh Ngài vốn ham mộ tu tŕ theo
Đạo Tam-Giáo Minh-Sư nên Ngài thường được
theo cha mẹ đến chùa nghe cầu kinh giảng Đạo.
Năm mười ba tuổi Ngài phát tâm xin nhập Đạo,
song thân Ngài thuận cho. Năm mười sáu tuổi năm
Ất-Dậu (1885) bỗng nhiên Ngài phát Đại
nguyện xin phép dâng lễ cầu sám thọ giới trường
trai, bước đầu vào đường giải thoát.
Song thân Ngài thấy con giốc ḷng mộ Đạo mà
nữa mừng nữa lo, mừng v́ con muốn làm điều
thiện theo ư nguyện của ḿnh, nhưng lo v́ Ngài là
con độc tự nếu giốc ḷng tu cầu giải
thoát th́ lấy ai nối dơi tông đường. Nhưng
nghĩ lại giới cầu sám vẫn c̣n nhập
thế được nên bằng ḷng cho Ngài dâng lễ,
và
nhờ Đức Thái Lăo Sư Trần Đạo Cửu
nhận làm bậc Thầy đứng khai thị.
Năm năm sau, năm Canh-Dần (1890)
Ngài được 21 tuổi là năm khó khăn trên bước
đường tu của Ngài, v́ Ngài th́ quyết tâm xin
cầu lên Nhứt Bộ, trường trai tuyệt dục
phế đời giải thoát, nhưng Song thân Ngài th́
nhất định không cho, v́ lẽ thừa tự nói trên.
Vấn đề dằn co măi, sau cùng Đức Lăo Sư
Trần Đạo Cửu lấy lẽ duyên nghiệp
đem chuyện Đức Phật Tổ bỏ ngai vàng
đi tu mà khuyên can, và kết cuộc Song thân Ngài mới
bằng ḷng cho Ngài bước vào đường xuất
thế.
Rồi từ đó đường tu
của Ngài cứ một mạch đi lên, năm 22
tuổi Ngài cầu lên Nhị Bộ, năm 23 tuổi Ngài
cầu lên Tam-Bộ, thế là xong phần Nhứt Thừa
Châu Viện. Đến năm 25 tuổi (Giáp-Ngọ), Ngài
bắt đầu bước vào Nhị Thừa lănh Thiên-Mạng
gọi là Thiên-Ân. Năm 31 tuổi năm Canh-Tư Ngài
được cầu Thọ-Thiên-Ân lên một bực là
"Chứng-Ân", chữ lót tên Ngài được
đổi lại chữ "Minh" , Trần Minh Quang, Năm
34 tuổi, Ngài được lănh Thiên-Ân lên một
bậc nữa là "Dẫn-Ân" th́ chữ lót tên Ngài
được đổi lại chữ "Xương",
Trần Xương Quang. Năm 37 tuổi, Ngài được
thọ lănh Thiên-Ân lên một bậc nữa là
"Bảo-Ân" th́ chữ lót tên Ngài được
đỗi lại chữ "Vĩnh", Trần Vĩnh
Quang. Đến đây đă xong phần Nhị-Thừa. Năm
Ngài 41 tuổi, năm Canh-Tuất (1910) bắt đầu bước
vào Tam-Thừa, Ngài được thọ phong Đảnh-Hàng
tức phẩm-vị Lăo-Sư, hàng chức sắc cao
cấp của Đạo Minh-Sư, và chữ lót tên
của Ngài được đổi lại chữ
"Vận", Trần Vận Quang.
Trong hàng Lăo-Sư lúc bấy giờ quí
vị phần đông bán thế xuất gia. Đặc
biệt Đức Thái-lăo Trần Đạo Quang đồng
chơn nhập Đạo, một bậc chơn tu đạo
hạnh, nhập đạo từ năm 13 tuổi, nên Ngài
rất được trong Đạo, ngoài đời kính
trọng. V́ vậy lúc thọ lănh Thiên-Ân, Ngài đă
đến nhiều nơi trong tỉnh nhà Định-Tường
phổ độ người vào đạo rất đông.
Đầu tiên Ngài đến Cả Ḥa, bổn đạo
hiến đất xây cất chùa, và tạo măi ruộng vườn
để làm phước điền. Rồi Ngài đến
xă Thôm-Rôm cũng xây cất chùa, tạo phước điền.
Sau Ngài về quê nhà, quận Cai-Lạy, phổ độ
thêm nhiều bổn đạo và lan rộng đến
nhiều nơi trong các tỉnh miền Nam như G̣-Công
v.v..
Từ đó danh tiếng Ngài không
những ở miền Nam, mà nhiều nơi tại
Trung-Kỳ cũng đều ngưỡng mộ. Năm
ấy không rơ năm nào, Ngài định ra Trung-Kỳ
thăm ḍ đường mở Đạo, do một đệ
tử mời Ngài ra Quảng-Ngăi, (theo lời một đệ
tử khác th́ người mời Ngài ra Quảng-Ngăi là
Thầy Ba-Họa, Ông này thọ giáo lúc c̣n nhỏ ?) xin
cầu tiến bạc Tiên Linh, nghĩa là cầu siêu cho ông
bà cha mẹ. Nhưng Song thân Ngài không bằng ḷng cho đi,
v́ cha mẹ tuổi già chỉ có ḿnh Ngài là con nên không
muốn cho đi xa. Ngài phát Đại nguyện khẩn
thiết xin Song thân cho Ngài đi, v́ thọ truyền
Tổ Mạng không thể không dẩn dắt nhơn sinh.
Song thân Ngài khóc lóc khuyên can, nhưng Ngài quyết tâm xin kư
thác Song thân cho chư đệ tử rồi Ngài nuốt
lệ mà bái biệt.
Năm Ngài 45 tuổi, năm Giáp-Dần
(1914) được cầu phong Thập-Địa Thái-Lăo-Sư
do Đức Tổ-Sư Trần-Đạo-Khánh (Tông
Phổ Tế) từ Trung-Hoa truyền thọ đại
nhậm. Và chữ lót tên Ngài đổi lại chữ
" Đạo" nên gọi Ngài là Thái-Lăo-Sư
Trần-Đạo-Quang cho đến măi về sau. Như
thế con đường tu-tŕ theo Đạo Tam-Giáo Minh-Sư
của Ngài đă đi đến tột đỉnh
chỉ c̣n truyền Tổ-Ấn nữa là hết
(Tổ-Sư Trần-Đạo-Khánh nguyên người
Việt qua Trung-Hoa thọ giáo tu-tŕ từ thuở bé,
được truyền phong Tổ-Ấn.).
Thọ Tổ-Mạng xong, Ngài vẩn
tiếp tục phổ độ nhiều nơi. Thời
gian sau, được sự tín nhiệm của 12 vị Lăo-Sư
mời Ngài về Linh-Quang-Tự tại làng Hạnh-Thông-Tây,
quận G̣-Vấp, tỉnh Gia-Định, chuyển thác chùa
Linh-Quang và đạo nghiệp cho Ngài. Từ đây
Linh-Quang-Tự được coi như là Tổ-Đ́nh Tông-Phổ-Tế
đạo Tam-Giáo Minh-Sư mà Ngài là người chủ
tŕ.
Ra Trung lần thứ hai chính thức mở đạo
Tam-Giáo Minh-Sư.
Khoảng năm Ất-Mẹo, Ngài
trở ra Trung lần thứ Hai. Duyên do chuyến ra Trung
lần nầy. Theo tài liệu của Ông Trần Chuân (túc
Lăo-Sư Trần-Đạo-Cơ) đệ tử thân
cận Thái-Lăo-Sư Trần-Đạo-Quang cung cấp tài
liệu cho tôi viết thiên sử nầy, và sự ghi
nhận của Bà Tham Tường con Cụ Trương Như
Hối và Ông Nguyễn-Thượng-Khải con Cụ
Nguyễn-Vĩnh-Từ (Nguyễn Thương Toại), hai
vị chức sắc đạo Minh-Sư cùng đệ
tử Đức Thái-Lăo (Bà Tham Tường và Ông
Nguyễn Thượng Khải th́ hiện là chức
sắc của Hội-Thánh Truyền-Giáo Cao-Đài) th́ sau
chuyến ra Trung lần thứ 1 của Đức Thái-Lăo
có tiếng đồn đăi trong giới ham mộ tu tŕ
về Ông Minh-Đường hay Ông Lăo-Phật-Đường
chân tu, nên nhiều người rất mong gặp Đức
Ngài..
Lúc bấy giờ tại vùng Quảng Ngăi,
Quảng Nam cũng có phong trào đồn đăi về nhà
Sư Thạch Đng tu đắc đạo, có phép
lạ, cứu thế độ dân. Nhà Sư danh hiệu là
ǵ, sự liên hệ với Đức Thái Lăo ra sao sẽ
khảo cứu sau. Chỉ biết Ông là người Quăng-Ngăi
tu ở động đá, nên gọi là Sư Thạch-Động.
Ông chỉ ăn toàn trái cây, rau ranh và đậu xanh mà thôi.
Thường ngày ngoài việc khuyến tu, giảng đạo
và cho thuốc chửa bệnh rất nổi tiếng nên
đệ tử khá đông. Tiếng đồn đến
Huế, các quan lại trong triều và Hoàng Tộc cho
mời Ông ra chửa bệnh trong nội cung, có lần
đến một hai năm...
Giới hâm mộ tu tŕ thời ấy,
đặc biệt ở Quảng Nam có cụ Lănh-Binh Trương
Điềm quê ở Thừa-Thiên, được
triều-đ́nh Huế bổ nhiệm vào trấn nhậm
ở Quảng Nam. Lănh-Binh , một chức quan vơ cai
quản quân cơ trong một tỉnh, một chức quan có
quyền thế của Nam-Triều.
Thời thái b́nh quan Lănh-Binh trông nôm việc
mở mang đường xá trong tỉnh. Nhân đó
Cụ Lănh-Binh Trương Điềm được
dịp tiếp xúc nhiều giới thân sĩ. Cụ
lại phát tâm muốn t́m đạo tu tŕ. Nên ngoài
việc tiếp xúc với nhà Sư Thạch-Động,
cụ t́m gặp các vị tu sĩ đạo Minh-Sư,
đệ tử ĐứcThái Lăo Trần Đạo Quang
để biết thêm về đường lối tu tŕ
củ Đức Ngài. Và năm ấy, cụ Lănh-Binh Trương
Điềm nhờ Ông Tú Trực, người làng Thanh Chiêm,
phủ Điện Bàn Quảng Nam viết thư cung
thỉnh Đức Thái Lăo Trần Đạo Quang ra
Quảng Nam, một mặt Cụ xin phép quan Tổng Đốc,
lệnh truyền làng Thanh Chiêm dọn dẹp khang trang ngôi
chùa cổ trong đầu làng để đón tiếp
Đức Thái Lăo.
Đức Thái Lăo ra Trung lần này, ban
đầu Ngài ở chùa làng Thanh Chiêm và nhà Ông Vỏ Chi
Lương, đệ tử của Ngài, người làng
Long Châu (Cải Thóc) cũng phủ Điện Bàn, nhờ
Cụ Lănh Binh thọ giáo và hộ tŕ nên Ngài thu nộp
được nhiều môn đệ. Và đặc
biệt nhất là Ngài thu nhận chùa Tây Thiên do bà Cụ
Giám Đốc Lương Văn Tấn hiến cúng để
làm cơ sở hành đạo,truyền đạo Tam Giáo
tỉnh Quảng Nam.
Chùa Tây-Thiên ở làng Thọ Sơn,
tổng Mậu Ḥa, phủ Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, do
cụ Bà Giám Đốc Lương Văn Tấn tạo
lập nên thường gọi chùa Bà Giám. Nguyên Cụ Lương
Văn Tấn đổ cử nhân được cụ
Phạm Phú Thứ trấn nhậm Tổng Đốc
Hải Dương (Bắc-Việt) đề cử
giử chức Bí Thư kiêm Giám Đốc thương
cảng Hải Pḥng. V́ vậy về sau mới có danh
từ gọi Bà là Bà Giám ? Cụ Lương Văn
Tấn qua đời, một thời gian sau, gia đ́nh
gặp nhiều biến cố, Cụ Bà buồn chán phát
nguyện quy y theo nhà Sư Thạch Động và tạo
chùa Tây Thiên hiến cúng để nhà Sư làm nơi
giảng kinh, thuyết pháp.
Chùa Tây Thiên chuyển biến qua Đức Thái Lăo
Trần Đạo Quang duyên do từ Cụ Lănh Binh Trương
Điềm thọ giáo Đức Thái Lăo, nhưng từ
trước vẫn thường học hỏi Giáo Lư
với nhà Sư Thạch Động. Nhờ vậy mà nhà
Sư Thạch Động cũng được hiểu
biết nhiều về Đức Thái Lăo Trần Đạo
Quang, bậc chân tu đạo hạnh. Ta tạm gác lại
huyền thoại về nhà Sư Thạch Động tiên
tri nên ủy thác đạo nghiệp lại cho Đức
Thái Lăo, ở đây chỉ ghi lại (theo lời Ba Tham Tường)
một buổi lễ nọ (không nhớ ngày) nhà Sư
Thạch Động truyền môn đệ tập hợp
đông đúc tại chùa Tây Thiên để nghe Ngài nói
pháp, và hôm ấy nhà Sư cho thỉnh Đức Thái Lăo
Trần Đạo Quang và một số môn đệ Ngài.
Sau thời pháp, nhà Sư Thạch Động
đề cao Đức Thái Lăo Trần Đạo Quang và
nói với chúng đệ tử, Ngài hết nhiệm
vụ ở thế độ dẩn nhơn sanh, Ngài
phải trở về núi, nên chuyển thác đạo
nghiệp lại cho Đức Thái Lăo Trần Đạo
Quang, khuyên chư đệ tử tuân theo lời Ngài mà tu
tŕ với Đức Thái Lăo. Rồi từ đó nhà Sư
biệt tích.
V́ vậy bà Cụ Giám trở thành
đệ tử Đức Thái Lăo Trần Đạo Quang
và chùa Tây Thiên chuyển biến cho Đức Ngài và
trở thành chùa Tam Giáo Minh-Sư, đặc biệt
nhất ở Quảng Nam để liên lạc với Linh
Quang Tự ở Sàig̣n .
Để phát họa quang cảnh
thủy tú sơn thanh của chùa Tây Thiên, trước có
núi Thọ Sơn, sau có chi nhánh sông Thu Bồn, Tôi ghi
lại mấy vần thơ của Bà Tham Tường
cảm tác lúc Bà 18 tuổi, nhân về viếng chùa bà
Ngoại (Cụ bà Giám là bà Ngoại của bà Tham Tường),
mà bà Ngoại đă mất đi rồi:
"Bước đến Tây Thiên
ngở núi Bồng
Cảnh chùa bà Ngoại phải đây không?
Sau lưng nước đón đưa người
Đạo
Trước mặt non che khuất bụi hồng
Hương ngát thơm tho mùi Đạo lư
Chuông rung chuyển động phép thần thông
Người đây cảnh đấy bao t́nh cảm
Cảnh có Bà không? Cháu tủi ḷng".
Đức Thái Lăo ở Trung kỳ
lần thứ hai về, bổn đạo miền Trung
từ Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngăi thường
xuyên liên lạc với Ngài tại chùa Linh Quang Tự
để xin thọ giáo hoặc cầu phong. Ngài sắp
xếp mọi việc an bày, lo mở rộng cơ Đạo
tại miền Nam. Bổn Đạo ở Phước
Long, tỉnh Rạch Giá rước Ngài đến hiến
đất xây chùa và tạo măi Phước Điền. Và
khoảng mười năm sau, năm Giáp-Tư (1924), bổn
đạo Quảng Nam cung thỉnh Ngài ra chùa Tây Thiên, Ngài
ra Trung lần thứ ba này để tiếp xúc
rộng răi với toàn bổn đạo, cầu chứng
cho một số bổn đạo không vào Nam thọ giáo
được, và chứng nhận khoảng 20 phật
đường do các vị thọ thiên ân lập để
phổ độ nhơn sanh như Quảng Tế
Đường, Viên Tế Đường, Phổ Tế
Đường, Vĩnh Tế Đường v.v. ..
Đức Thái Lăo Trần Đạo
Quang ra Trung phổ độ dưới chế độ
cai trị của chánh quyền bảo hộ Pháp và Nam
Triều, không phải không gặp những khó khăn,
huống tại Quảng Nam, chí sĩ Trần Cao Vân cũng
là một đạo sĩ đă gây nhiều phong trào
chống Pháp và sau xúi vua Duy Tân khởi nghĩa, nên
mấy lần quan địa phương phủ huyện
đ̣i Ngài đến chất vấn. Ngài vẩn lời
lẽ chân thật, đạo đức hiền ḥa tŕnh
bày: "Tôi nghĩ chính phủ ta hay Bảo-hộ (Pháp)
cai trị dân cũng muốn người dân lương
thiện, biết tôn trọng luân thường đạo
lư, tuân theo phép nước, làm tṛn bổn phận người
dân. Th́ chính tôi đây độ dẩn người tu hành
là khuyến dân làm những điều ấy. C̣n hơn
vậy nữa, người tu hành biết thương người
thương vật, không sát hại đến loài cầm
thú côn trùng nên tôi mong rằng chánh phủ và quan lớn
không giúp đở tôi được th́ cũng xin đừng
ngăn cấm chúng tôi"
Lời lẽ Ngài đầy từ bi hoan hỷ, tướng
mạo phi phàm của Ngài: râu dài quá rốn, đạo
cốt tiên phong. Các quan lại Nam Triều tuy khó khăn nhưng
cảm phục, nên mọi việc rồi cũng bỏ
qua.
Qui hiệp với Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Năm Ất-Sửu (1925),Đức Thái
Lăo lại chuẩn bị ra Trung-Kỳ Quảng-Nam hành
đạo. Hành trang sắp xếp xong, lần này định
mang kinh sách ra phổ độ. Ngài định ngày 09 tháng
09 âm lịch khởi hành, th́ bất ngờ đêm mùng 08
quí Ông Bộ Tương, Ba Kinh (Ông Bộ Tương
đây không rơ Ngài Lăo Sư Tương sau được
phong Thượng Chưởng Pháp, hay là Ngài Phủ
Nguyễn Ngọc Tương, v́ ông Trần Chuân không
nhớ rơ!, Ba Kinh tức ông Giáo Sư Kinh) hướng
dẫn quí ông Hội Đồng Lê Văn Trung, Đốc
Phủ Lê Bá Trang, Vương Quan Kỳ, quí ông Cao
Quỳnh Cư và ông Ba Sanh đến tŕnh bày có lệnh
Thượng Đế dạy đến xin lập đàn
cơ để Ngài dạy Đức Thái Lăo.
Giờ Tư ngày 09 tháng 09 năm
Ất-Sửu, cơ đàn thiết lập tại Linh Quang
Tự, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế tá
danh Cao Đài giáng dạy Đức Thái Lăo nên qui
hiệp về Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
để tận độ chúng sanh cho kịp cơ đại
ân xá.
Lệnh truyền tuy đột ngột, nhưng Đức
Lăo nhận hiểu kịp Thiên Ư, v́ trải bao năm tu
Đạo Minh-Sư, Ngài có nhiều lần đọc qua
kinh sách giáng bút từ Trung-Hoa đă có nói: "Lục
vạn dư niên Thiên khai Huỳnh Đạo nhứt
kỳ. . . và mạc hậu Tam-Kỳ Thiên khai Huỳnh
Đạo v.v. . ." nên Ngài có bạch hỏi một vài
điều, được Đức Thượng-Đế
Cao-Đài giải đáp và xin cho có thời gian để
chuẩn bị tuân mạng . . .
Thế là cuộc đi Trung-Kỳ đ́nh
lại và thiên mạng Ngài nhận ở Tổ Sư
Trần Đạo Khánh cũng kết thúc từ đây!
Rằm tháng Giêng năm Bính Dần
(1926), Đức Thái Lăo Trần Đạo Quang Lên chùa G̣-Kén
Tây-Ninh thọ mạng Thượng-Đế, qui hiệp
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, và
thời gian sau đó, Ngài được Đức Cao-Đài
Thượng-Đế phong cho chức Ngọc Chưởng
Pháp cùng với Ngài lăo Sư Tương: Thượng Chưởng
Pháp, Ngài Ḥa Thượng Như Nhăn (chủ chùa G̣-Kén) Thái
Chưởng Pháp, là những chức sắc cao cấp
trong Hội Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
đầu tiên tại Tây-Ninh.
Tin Đức Thái Lăo Trần Đạo Quang
qui hiệp Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
không mấy lúc đă loan truyền khắp cả giới
Đạo Minh-Sư Nam và Trung Kỳ, gây cho toàn Đạo
Minh-Sư, chư đệ tử của Ngài một sự
kinh ngạc, xúc động và hoang mang. Khắp nơi
lập tức gởi người về SàiG̣n hỏi ư
kiến, khuyên can Đức Ngài, không dằn được
bực tức đến hờn trách Ngài. V́ họ coi
đây như là việc bỏ Đạo, giữa
đường bỏ họ. Trường hợp như ông
Ba Họa, người Quảng Ngăi, xuất gia theo Đức
Thái Lăo từ thuở ông c̣n nhỏ, Ngài tin cậy Ông
làm hộ pháp (Hộ-Pháp tức là hộ-tŕ Đạo-Pháp,
theo hộ-tŕ Đức Thái Lăo) cho Ngài.T́nh Sư Đệ
thắm thiết dường ấy, ông Ba-Họa không ngăn
cản Ngài được, quá bực tức, có lần Ông
lên gỡ Thiên-Nhăn, biểu hiệu thờ của Đạo
Cao-Đài, xé đốt. Về sau Ông này khật-khùng chuyên
nói quốc sự, viết thư gởi cho Toàn Quyền Pháp
ở Hà-Nội, Thống Đốc Nam-Kỳ, đuổi
phải về nước và viết thư cho chánh phủ
Pháp đ̣i trả nước Nam lại cho Ông ta. Suốt
ngày lẩn đêm, khi ăn lúc ngủ, cho đến lúc
đi đường, Ông cũng luôn luôn cầm khăn gói
theo ḿnh, cho đó là túi binh thư đồ trận... ,măi
cho đến ngày Ông qui liễu v.v.. .
Bởi Đức Thái Lăo Trần Đạo
Quang là linh hồn của họ, là bậc Thầy độc
nhất của họ. Trong hàng Lăo Sư Việt Nam, Ngài là
vị lảnh đạo chân tu đạo hạnh,
được phong Thái Lăo Sư là phẩm vị cao
nhất trong hàng chức sắc đạo Tam-Giáo Minh-Sư
lúc bấy giờ. Khi truyền thọ thiên mạng Thái Lăo
Sư cho Ngài, Đức Tổ-Sư Trần Đạo Khánh
bên Trung-Hoa có tặng cho Ngài câu đối, đầu câu
lấy hai chử "Đạo Quang", cuối câu
lấy 2 chử "Lăo Nhân",
"Đạo cốt tiên phong duy
thử Lăo.
Quang tiền đủ hậu thị tư Nhân.".
Nghĩa là : Đạo cốt tiên phong
duy có Ông này, soi sáng đời trước, truyền
nối lại đời sau cũng chỉ có Ông này. Ư nghĩa
câu đói trên Đức Tổ-Sư Trần Đạo
Khánh ngợi khen và đặc biệt tín nhiệm Đức
Thái Lăo Trần Đạo Quang và chuẩn bị sẽ
truyền thọ Tổ-mạng "An-Nam Đệ Nhất
Tổ" cho Ngài Đạo Quang, để về sau
tổ-mạng đă có ở Việt Nam, các tu sĩ
chức sắc Tam-Giáo Minh-Sư không phải qua Tàu xin
cầu phong nữa, xa xôi huyền cách.
Sự việc như vậy bảo toàn
thể chức sắc Đạo đồ Minh-Sư không
đau buồn sao được? Chính Đức Thái Lăo
Trần Đạo Quang cũng xót xa trước t́nh sư
đệ thiêng liêng, linh-sơn cốt nhục. Trước
sứ mạng trọng đại rao truyền tân pháp
tận độ chúng sinh Đức Thượng Đế
Chí Tôn giao phó, Ngài phải tuân mạng. Hơn nữa trong
buổi đời Hạ-Ngươn mạt kiếp,
mạt pháp này chỉ có Tân Pháp mới độ rổi
được toàn thể sinh linh đó có cả chư
đệ tử Ngài. Đó là điều Ngài thấy
ở thiên cơ đă minh thị
Dầu vậy, chấm dứt đạo
thống Minh-Sư, từ chối Tổ-Mạng An Nam Đệ
Nhứt Tổ sắp được truyền, để
qui hiệp với Đạo Cao-Đài, một việc làm
phi thường đầy quả cảm của một tâm
trường Bồ Tát, của bậc giác ngộ siêu nhân,
đoán được thời cơ, biết được
vận hội, cầm được cương lăng đạo
pháp, thủ xả tuỳ duyên, pháp không định tướng,
hợp cơ là hợp Đạo vậy (pháp vô định
tướng hợp cơ vi diệu).
Với đức độ hoan hỷ
Bồ-Tát, với lẽ Đạo nhiệm mầu dung thông
v́ chúng sanh mà có pháp. . . Ngài đă giải thích cho toàn
bổn Đạo Minh-Sư, đệ tử Ngài thông
cảm. Ngài khuyên những vị nào nhận hiểu
kịp th́ theo đường qui hiệp của Ngài, bên
muốn tự tu cầu giải thoát giữ nguyên
đường lối Minh-Sư, Ngài sẽ chĩ giáo cho,
hoặc nhờ các vị Lăo Sư bảo cử
dẫn-tấn hướng dẫn... Về sau trong hàng
đệ tử Ngài, quí vị chức sắc thiên ân
nhận hiểu được d́u dắt bổn đạo
theo đường qui hiệp với Ngài; một số
giữ nguyên đường lối Minh-Sư như Ngài
đă dặn, c̣n một số gia nhập theo phái Nam-Tông
do Ngài Lăo Sư Đinh, người G̣-Công, hướng
dẫn, như hiện nay ở Quảng-Nam Trung-Việt có
chùa "Nam-Tông Phật Đường" toàn là đệ
tử Ngài trước kia.
Tạm giải quyết vấn đề
nội bộ Minh-Sư, nhờ quí vị chức sắc
thiên ân chuyển đạt ư kiến Ngài đến toàn
bổn đạo, Đức Ngọc Chưởng Pháp
Trần Đạo Quang lên Tây-Ninh, Một mặt lo phổ
độ một mặt mua đất lập vườn
trồng trúc, mít, nơi có qui tụ bổn đạo là
sở thích nhất của Ngài. Ngày 23 tháng 8 năm Bính-Dần,
tại Thánh Thất Cầu Kho Sài G̣n, Ngài cùng 27 vị
Tiền Bối Khai Đạo đứng tên vào tịch
đạo gởi lên Thống Đốc Nam Kỳ công khai
mối đạo. Sự đứng tên của Đức
Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang lúc
bấy giờ rất hệ trọng. Muốn cho người
Pháp bớt nghi ngờ việc công khai mối Đạo
phải có bậc chân tu đạo hạnh như Ngài.
Thời gian sau đó Ngài đi khắp nơi
Định-Tường, G̣-Công, Phước-Long,
Rạch-Giá, phổ độ được các giới
đồng bào ngưỡng mộ nhập Đạo
rất đông, và một số bổn đạo Minh-Sư
cũng về với đạo Cao-Đài.
Phổ độ khắp nơi rồi
lại về Tây-Ninh, cứ như vậy ít năm th́
nội bộ Hội Thánh Tây-Ninh xăy ra việc khảo
đảo. Trước tiên sự thủ thách ở chùa G̣-Kén,
sau về Long-Thành (Thánh Địa Ṭa Thánh Tây-Ninh ngày
nay). V́ bất đồng ư kiến giửa một số
quí vị chức sắc cao cấp (phải chăng đây
là Thánh ư ?), Ngài Thái Chánh Phối Sư Nguyễn Văn Ca
(đốc phủ Ca) tách Toà Thánh về Định-Tường,
tỉnh nhà (Mỹ-Tho) lập phái Đạo Minh-Chơn-Lư
với danh nghĩa "Minh Chơn Lư" Hiệp ngũ chi
quy nguyên Đại Đạo bắt đầu chống
lại Ṭa Thánh, rồi lần đến cả hai
chống nhau. Đức Trần Đạo Quang cảm
thấy không hài ḷng, Ngài về Linh Quang rồi xuống
Định-Tường, mục đích muốn ḥa
giải nội bộ, nhưng mấy lần thấy vô
hiệu và Thiên Sư Phùng có tâm đố kỵ, Ngài
thấy không hợp bèn cáo biệt về miền Hậu
Giang phổ độ. Ở đây được
nhiều giới mộ đạo nhập môn theo Ngài
tại Xóm-Sở Cà-Mâu có một số đạo tâm
hiến đất cho Ngài lập vườn xây cất chùa,
và Ngài tạo thêm ruộng để làm phước điền,
chùa tại Xóm-Sở lấy theo phái Ngọc của Ngài
đặt tên chùa "Ngọc-Sắc".
Hiện nay Hội-Thánh Minh-Chơn-Đạo
đặt tại đây. Ngài Đốc Phủ Ca về
Đinh-Tường một thời gian ít năm, Ngài Thượng-Chánh-Phối-Sư
Nguyễn-Ngọc-Tương (Tri phủ Tương) cũng
tách Ṭa Thánh về Bến-Tre lập "Ban Chỉnh Đạo",
cơ đạo ở Ṭa Thánh bước vào giai đoạn
chia rẻ thực sự. Trước sự thế, Đức
Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang thấy không
làm ǵ được nên Ngài ít về rồi đến
không về Ṭa Thánh nữa, Ngài thường ở Hậu
Giang lo việc mở Đạo, ở Hậu -Giang,
những nhân vật tên tuổi đầy nhiệt t́nh
với quốc gia được Thiêng-Liêng thâu vào Đạo
như Ngài Cao Triều Phát, Phan Văn Thiệu. . . Quí
vị này thấy Đức Ngọc Chưởng Pháp
bậc đạo đức chân tu mời các Ngài hợp
tác và được Thiêng Liêng chấp nhận lập
Hội Thánh Minh-Chơn-Đạo và giao phó Đức
Ngọc-Chưởng-Pháp Trần Đạo Quang Quyền
Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài, Ngài
Cao-Triều-Phát Bảo-Đạo Quyền Chưởng-Quản
Hiệp-Thiên-Đài, Ngài Phan Văn Thiệu Ngọc-Đầu-Sư
và v.v. . ..Sau này Ṭa Thánh đặt tại Giồng-Bốn
cùng với "Ngũ-Hành-Ṭa".
Ṭa Thánh này bị chiến tranh Việt Pháp 1945- 1954 phá
hủy nên hiện nay Hội Thánh Minh-Chơn-Đạo
đặt tại chùa Ngọc-Sắc như đă nói trên.
Ra Trung lần thứ 3, qui tụ bổn đạo
Minh-Sư hợp tác công khai với Đạo Cao-Đài
Tạo lập Ṭa Thánh Hậu-giang (Ngủ-Hành-Ṭa)
Giồng-Bốn, khí thế đạo bành trướng
tấp nập đến đả có câu truyền
miệng nhau " Phản tiền vi hậu", ư nói
lấy Hậu-Giang làm Tiền-Giang nghĩa là Hậu-Giang
thay cho Tây-Ninh (?), Đức Ngọc Chưởng Pháp
Trần Đạo Quang cùng Đạo trưởng Cao
Triều Phát, Phan Văn Thiệu đương điều
hành cơ Đạo th́ có lệnh Thiêng Liêng dạy Đức
Ngọc Chưởng Pháp ra Quảng Nam Trung Kỳ để
quy tụ bổn đạo Minh-Sư qui hiệp về
đạo Cao-Đài và hợp sức với các hướng
đạo Quảng Nam mở rộng cơ đạo Trung,
Bắc Kỳ. . .
Mùa Trung Thu năm Đinh-Sửu (1937), Vâng
lệnh Thiêng liêng Đức Ngọc Chưởng Pháp
Trần Đạo Quang ra Trung Kỳ có nữ đệ
tử đạo tỷ Thanh Sang và hai tu sĩ nam: Ông Đạo
Năm và ông Đạo Mt, hai tu sĩ này ở núi
xuống, gốc người Quảng Nam , theo tu tŕ.
Nhân việc hai thầy tu núi không biết tu đạo
ǵ, ở núi Tây-Ninh hay Thất Quang Châu Đốc
xuống theo hầu Ngài, ta cũng biết tại chùa Linh Sơn
(Tổ đ́nh Đạo Minh-Sư) của Đức
Ngọc Chưởng Pháp, Ngài dung nạp mọi thứ
thầy tu. Có lẽ họ nghe đồn đạo đức
chân tu của Ngài t́m đến hoặc một phần dưới
chế độ cai trị của ngườ Pháp thời
gian sau khi đạo Cao Đài ra đời có phần
khắc khe với các chùa chiền, nhất là các tu sĩ
ở núi không ai dám tiếp nạp, v́ vậy chùa Linh Quang
có đủ thứ thầy tu: Tịch cốc có, ăn
ngọ cũng có, luyện pháp có, Minh-Vương Thánh Chúa
có, Quan Thánh giáng trần, Phật nhập thế có, như
trường hợp ông Trần Chấn Hưng chẳng
hạn v.v. . .Đức Ngọc Chưởng Pháp tiếp
nhận cả, khuyến họ học hiểu chân lư mà tu
đừng có dục vọng.
Việc tiếp nhận này, có lần
chủ quận G̣-Vấp, Gia-Định mời Ngài đến
hỏi lư do, Đức Ngài chân thành tŕnh bày tất
cả những người ấy họ thảy là con dân
đất nước, chán đời họ đi tu,
ở chùa hoặc ở núi, ở không được th́
họ trở về, đến đâu cũng sợ không
chứa, bây giờ bảo họ ở đâu ? Quan lớn
bảo họ làm quốc sự, làm giặc, th́ họ là
những người ăn chay trường, một con
vật nhỏ như loài côn trùng cũng không sát hại
th́ họ làm giặc sao được? Nếu bảo
họ điên khùng cuồng tín th́ cần phải nuôi
dạy họ lần hồi sẽ hết. Tôi dung nạp
nhửng người ấy là cốt ư muốn cho họ
trở nên người tốt v. v. ..Thế rồi chính
quyền cũng bỏ qua, nên chùa Linh Quang những tu sĩ
ấy vẫn tiếp tục có măi.
Đức Ngọc Chưởng Pháp ra
Trung Kỳ, trước hết Ngài đến chùa Tây-Thiên
(cơ sở chính của đạo Minh-Sư) tại
quận Duy-Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Lúc tàu lửa đến
ga Chiên Sơn, th́ ở đây có sẳn quí Đạo Trưởng
Giáo-Sư Trần Công Bang, Nguyễn Quang Châu va Giáo-Hửu
Nguyễn Đán, Quí vị hướng đạo Cao-Đài
Quảng Nam và cũng vốn là đệ tử Ngài
từ ở Minh-Sư nhập vào đạo ở Linh-Quang,
đang đón đợi nghinh đón.
Đức Ngọc Chưởng Pháp trú
ở chùa Tây-Thiên chưa đầy một tháng, bổn
đạo Minh-Sư, Cao-Đài tấp nập đến thăm
Ngài, trong số có vị hướng đạo Minh-Sư
Trần Nguyên Chất, Huỳnh Ngọc Trác và v.v. . .Nhân
dịp Ngài trực tiếp giăi thích lư do Ngài tuân mạng
Thượng-Đế qui hiệp Cao Đài và khuyên tín
hửu theo đường Ngài để phổ độ
lập công. V́ bổn đạo đi lại đông
đảo, chính quyền địa phương có ư làm
khó dể. Tri phủ Duy-Xuyên Nguyễn Sĩ Túc đến
tận chùa xem xét, và khuyên Ngài đừng tiếp xúc
nhiều , v́ địa phận Trung-Kỳ cấm
truyền bá tu tập đạo Cao-Đài.
Nhận thấy dưới chế độ
Nam-Triều lúc bấy giờ cơ đạo rất khó
bề phát triển, nên Ngài Quan-lộc tự-khanh Lê Trí
Hiển một trong các vị hướng đạo
Quảng Nam đến thăm Ngài, có cả quí vị
Trần Công Bang, Nguyễn Quang Châu, Nguyễn Đán cùng
hợp tŕnh bày, Thánh ư Đức Trần Hưng Đạo
khuyên nên ra Tourane (Đà Nẳng hiện nay), đất nhượng
địa trực thuộc quyền Pháp cai trị như Sài
G̣n, thành lập cơ sở công khai truyền Đạo làm
nơi tiếp xúc với miền Nam, và chuẩn bị
mở rộng ra Bắc, và cũng là nơi tàng trử
kinh sách.
Từ đó phát cho bổn đạo
chuyển lần về vùng quê các tỉnh. . .Đức
Ngọc Chưởng Pháp đồng ư chuẩn bị
dọn ra Tourane, nhưng được tin điện Đạo
Trưởng Cao Triều Phát sắp ra, Ngài ở lại Tây-Thiên
chờ đón và ủy thác quí Đạo Trưởng
Nguyễn Quang Châu, Nguyễn Đán ra trước Tourane
sắp xếp chỗ tạm trú.
Cuối mùa thu năm Ất-Sửu
tại Ṭa Thánh Hậu-Giang, Đạo Trưởng Cao
Triều Phát được lịnh Thiêng Liêng dạy ra
Trung-Kỳ thu xếp mặt ngọai giao giúp Đức
Ngọc Chưởng Pháp và các hướng đạo
miền Trung công cuộc mở cơ Đạo Trung,
Bắc Kỳ. Đạo Trưởng suy nghĩ có lẽ
Thánh ư biết Đạo Trưởng quen thân với
Phạm Quỳnh ở Pháp lúc hai người cùng là thông
ngôn cho lính Việt Nam giúp Pháp đánh Đức hồi
cuối dệ nhứt thế chiến khoảng 1916-1918. Và
Phạm Quỳnh bấy giờ là Thượnh Thơ
Bộ Học kiêm Ngự Tiền Đổng Lư Cơ
Mật viện Đại Thần, một vật uy
quyền trong triều đ́nh Huế.
Tuân lệnh Thiêng Liêng Cụ Cao
Triều Phát ra Trung đem theo đồng tử Cao Minh
Tuất và do Ông Nguyễn Hồng Phong một nhân sĩ
Quảng nam và cũng là bổn đạo Đức
Ngọc Chưởng Pháp hướng dẫn, đến
Quảng Nam đă có quí vị hướng đạo
đón tiếp đưa thẳng đến chùa Tây-Thiên
để gặp Đức Ngọc Chưởng Pháp.
Ở đây rồi Cụ Cao-Triều đến
viếng Thánh-Tịnh Thanh-Quang cơ sở đàu tiên
mở đạo Trung -Kỳ và Cụ cùng Đạo Trưởng
Giáo Sư Nguyễn Quang Châu đi thuyền đến làng
Đa-Hóa thăm Ngài Quan Lộc tự khanh Lê Trí Hiển.
Cụ Cao Triều Phát ra Trung lần
nầy là lần đầu tiên, và Cụ rất hăng hái
với công cuộc truyền đạo Trung,
Bắc-Kỳ, nên tom góp chở theo mấy kiện kinh sách
để phân phát cho đồng bào bổn đạo, v́
vậy Tri Phủ Duy Xuyên được báo tŕnh, cấp
tốc cho trát mời Cụ Cao-Triều đến phủ
đường để cho biết theo đạo dụ
số 10 của Hoàng Đế Bảo Đại th́
tất cả kinh sách của Cao Đài không được
truyền bá trong địa phận Trung-Kỳ (nhất
thiết Cao Đài thư tịch bất đắc
truyền bá Trung-Kư).
Việc này Cụ Cao-Triều đả
biết trước và chuẩn bị trước từ
ở trong Nam, nhân dịp Cụ cũng trách (khéo) Tri
Phủ Nguyễn Sĩ Túc, viên Tri Phủ khét tiếng là
hung bạo, phải nể Cụ. Và từ đó cũng có
phần nể các vị Hướng Đạo Cao Đài.
Khi đến Phủ đường Duy Xuyên Cụ
Cao-Triều trao danh thiếp Hội Đồng Quản
Hạt và trả lời với Tri Phủ: "Bẩm Quan
lớn, Tôi lần đầu tiên ra Trung-Kỳ, trước
thăm Đức Ngọc Chưởng Pháp chúng tôi ở
chùa Tây-Thiên và cũng nhân dịp viếng xem phong cảnh
một lần cho biết, Tôi ở trong Nam nghe nói Trung,
Bắc-Kỳ là xứ Nho-Học đầy lễ giáo, Tôi
đến đây thấy Quan lớn làm việc dể dăi
hơn chúng tôi trong Nam, Quan lớn đ̣i Tôi có mặt
2giờ 30 chiều mà bây giờ 3giờ 30 Quan Lớn
mới ra khách tiếp Tôi, th́ giải quyết việc cho
dân có lẽ trể tràng lắm? Về việc kinh sách Cao
Đài không được truyền bá Trung-Kỳ, th́ Tôi
có truyền bá địa phận Quan Lớn đâu? Có
lẽ Quan Lớn nói về mấy kiện kinh sách hiện
ở chùa Tây-Thiên? Mời Quan Lớn lại xem Tôi đă
ghi rơ ở mỗi kiện hàng: "Mr Cao-Triều-Phát à
Tourane". Địa chỉ của những kiện hàng
ấy là Tourane nhưng hành lư của Tôi th́ Tôi ở
đâu phải mang theo đó v.v.. .Tri Phủ Duy-Xuyên
chỉ c̣n xin lổi rồi huề. . .
Đêm hôm ấy ở chùa Tây-Thiên có
đàn cơ, Thiêng Liêng giáng dạy các việc, Đức
Ngọc Chưởng Pháp, Cụ Cao-Triều, quí hướng
đạo Quảng Nam họp bàn chương tŕnh tiến
hành, rồi Cụ Cao-Triều, ông Nguyễn Hồng Phong,
đồng tử Cao Minh Tuất từ biệt đi
Huế thăm Phạm Quỳnh và nhờ giúp đở công
cuộc truyền đạo Trung, Bắc. Mấy hôm sau,
Cụ Cao-Triều và đồng tử từ Huế
trở về SàiG̣n, ông Nguyễn Hồng Phong về Tourane
tŕnh bày mọi việc với Đức Ngọc Chưởng
Pháp.
Lúc bấy giờ Ngọc Chưởng
Pháp từ chùa Tây-Thiên cũng đă dọn ra Tourane mượn
nhà tạm chùa Bửu-Nghiêm, đường Đổ
Hửu Vị (nay đường Hoàng Diệu) làm nơi
tạm trú để mua đất xây cất Thánh Thất
lớn làm cơ sở truyền bá đạo Trung-Kỳ
như Thánh ư đă dạy và các vị hướng đạo
Nam Trung đă hợp bàn.
Ở Tourane đất nhượng địa chế độ
cai trị như SàiG̣n nên kinh sách được phát hành,
bổn đạo nhà quê ra tu tập tự do.
Các giới đồng bào công tư chức
ở Tourane đồn nhau Đức Thái Lăo (ở Trung, v́
đệ tử Ngài đạo Minh-Sư nên hầu
hết chỉ gọi Ngài Đức Thái Lăo) ông Tiên
ở SàiG̣n ra mở đạo Cao Đài, họ rũ nhau
đi coi Ngài, nên ngày nào cũng có khách t́m tấp
nập. Khu chùa Bửu Nghiêm trước kia tịch
mịnh bao nhiêu th́ từ ngày Đức Ngọc Chưởng
Pháp đến tạm trú trở nên náo nhiệt bấy
nhiêu. Phần Phật Giáo Trung Kỳ lúc này đang phát
triển, hội Nam Phật Giáo Trung-Kỳ ra đời phát
triển tân học tham gia đông để cùng tổ
chức thuyết pháp, diễn thuyết thường xuyên,
và tại Tourane Giáo Hội Tin Lành cũng coi như Hội
Thánh trung ương đặt tại đây.
Trước t́nh thế trăm hoa đua
nở, nhất là đối với một nền Đạo
mới, những cuộc tranh luận giáo lư thường
xảy ra hằng ngày, việc này có Cụ Nguyễn
Hồng Phong và Đạo Trưởng Nguyễn Quang Châu
đối phó.
Đức Ngọc Chưởng Pháp đến Tourane
được hai tháng, nhờ bổn đạo t́m mua
được khu đất gần một mẫu ta cùng
đường Đổ Hửu Vị, cách mặt
đường 100 thước, Ngài kêu gọi bổn
đạo miền quê ra hợp sức xây cất một
ngôi nhà tranh để có một nơi thờ phượng
lễ bái, qui tụ bổn đạo chuẩn bị xây
cất Thánh Thất.
Cuối tháng 11 năm Đinh-Sửu, ngôi
nhà tạm cất xong, Ngài trả chùa Bảo-Nghiêm dọn
về nhà mới thiết Thiên Bàn, tạm đặt tên
Ngọc Vân Thánh Thất (lấy chử Ngọc của Phái
Ngài) triệu tập quí vị hướng đạo
Quảng Nam và bổn đạo miền quê ra dự để
bàn việc xây cất Thánh Thất mới. Buổi hợp
này có cả Cụ Lê Trí Hiển cùng góp ư muốn
cất một Thánh Thất qui mô để làm cơ
sở truyền Đạo và giao tiếp Trung Nam như Thánh
ư đă truyền dạy. Nhưng nếu như vậy th́
Đức Ngọc Chưởng Pháp phải về SàiG̣n
vận đng tài chánh th́ e c̣n trể nhiều.
Ư kiến chưa ngă ngũ, đêm
ấy thiết lập đàn cơ, Đức Tổng Lư
Trần Hưng Đạo giảng dạy, khuyên nên xây
cất một Thánh Thất qui mô, đủ ba đài Bát
Quái Đài, Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài,
lầu chuông trống. Ngài phát họa luôn thước
tất và cho hiệu Thất là "Trung Thành" để
làm nơi rao truyền sứ mạng Trung-Hưng. Ngài khuyên
Đức Ngọc Chưởng Pháp yên tâm đừng tính
chuyện về Nam, ở lại chủ tŕ tinh thần, qui
tụ nhân tâm, mở cửa tiếp nhận những người
mới xin nhập Đạo? Việc xây cất th́ Đức
Ngọc Chưởng Pháp và toàn Đạo làm hết
sức ḿnh c̣n Ngài sẽ vận chuyễn. . . Đàn cơ
hôm ấy mọi người đều phấn khởi. Bây
giờ chỉ lo việc họa đồ và mua sắm
vật liệu chuẩn bị khởi công.
Thánh-Thất Trung-Thành chính thức ra
đời tuy c̣n tạm ngôi nhà tranh, nhưng ngày nào cũng
có người nhập môn, đặc biệt quí ông Ba
Thới, Hai Xứng, Năm Cảnh. . . là những tay anh
chị ở Tourane, v́ cảm phục Đức Ngọc Chưởng
Pháp thảy đồng nhập đạo, nhất là
Carlot, tây lai trước nhân viên quan thuế (thương
chánh) sau là người của sở mật thám đến
để theo dơi nhưng rồi cũng vào đạo.
Mọi việc tiến hành thuận
lợi th́ một trở ngại đưa đến, Công
Sứ Tourane không cho phép xây cất Thánh Thất, Rằm tháng
Giêng năm Mậu-Dần (1938) buổi hợp đủ quí
vị hướng đạo Đức Ngọc Chưởng
Pháp, Ngài Lê Trí Hiển,Nguyễn Quang Châu, Trần Công
Bang, Nguyễn Đáng, Nguyễn Hồng Phong,v.v. . . thảo
luận vấn đề phép xây cất, nhưng kết
luận chỉ cách nhờ trong Nam can thiệp, v́ Tourane là
nhượng địa chánh phủ Nam Triều không
thẩm quyền. . . Vấn đề c̣n toan tính th́ đêm
ấy có đàn cơ Đức Trần Hưng Đạo
Vương đến truyền lệnh hăy b́nh tâm để
Ngài sẽ chuyễn người lo liệu. . .
Phép tắc xây cất chưa xong, đầu
tháng hai năm ấy (Mậu-Dần) quí vị chức
sắc Phái Đạo Tiên-Thiên Ngài Ngọc Chưởng
Pháp Nguyễn Thế Hiển, Thượng Đầu Sư
Nguyễn Bửu Tài ra Trung mang theo Thánh lịnh của Liên-Ḥa
Tổng-Hội, Thiêng Liêng dạy phải xây cất
Trung-Thành Thánh-Thất cho xong đến ngày mùng 8 tháng 4 năm
Mậu-Dần khánh thành, khai hội Long-Vân đệ bát,
chính thức công khai Đại Đạo Trung Bắc
Kỳ.
Thật là rắc rối nổi mừng nổi lo
dồn dập đưa đến, Ngài Nguyễn Thế
Hiển, Ngài Nguyễn Bửu Tài gặp Đức
Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang biết rơ
sự t́nh, hai Ngài vào quê thăm Thánh Tịnh Thanh Quang, Thánh
Thất Từ Quang và đến thăm Ngài Lê Trí Hiển
(Quan lộc tự Khanh) rồi vội vă trở về Nam
nhận lănh trách nhiệm vận động tài chánh và phép
tắc. . .
Cuối tháng 2 Mậu-Dần, Đạo
Trưởng Lê Kim Tỵ Thượng Chưởng Pháp Phái
Đạo Tiên-Thiên được lệnh Thiêng Liêng
phải ra gắp Tourane Trung-Kỳ cùng Ngọc Chưởng
Pháp Trần Đạo Quang xây dựng Trung-Thành Thánh
Thất cho kịp ngày đă định.
Đạo Trưởng Lê KimTỵ đến Tourane ngày
mồng 6 tháng 3 Mậu-Dần, chỉ c̣n đúng 1 tháng 2
ngày là đến ngày khánh thành. Đạo Trưởng
lập tức họp các vị Hướng Đạo thành
lập Ban Tạo Tác phân phối công việc, chia nhiều
ban, mỗi người một việc, một mặt đến
thăm xả giao Công Sứ Tourane ḍ xem t́nh h́nh, thấy có
phần khó khăn, Đạo Trưởng ủy thác
mọi việc cho Ban Tạo Tác, Ông đáp tàu tốc hành
đi thẳng Hà Nội nhờ De Beaumont (một thân sĩ
Nam-Kỳ) đánh điện cho Công Sứ Tourane yêu
cầu cho phép xây cất Thánh-Thất.
Được De Beaumont sốt sắng
giúp đở nên Đạo Trưởng vui mừng
vội trở về, nhân dịp ghé thăm Cụ Phan
Bội Châu và tặng Cụ 20$ rồi mới đón tàu
khác về Tourane.
Trước hoàn cảnh cấp bách bối rối, xây
cất Thánh Thất qui mô, mà thời gian chỉ c̣n không
đầy một tháng, mà vẩn tưởng nhớ đến
bậc chí-sĩ ái-quốc Cụ Phan-Bi-Châu để ghé
thăm, thật tinh-thần một người hướng
đạo Cao Đài lúc nào cũng nặng t́nh với
quốc gia dân tộc.
Đạo Trưởng Lê Kim Tỵ
về đến Tourane tính ra chỉ c̣n có 22 ngày nữa là
đến ngày khánh thành, nên cấp tốc chia công tác ra
3 ban, 1 ban làm ban ngày , 2 ban đốt đèn măng-sông làm
ban đêm (từ 19 giờ đến 01 giờ, từ 01
giờ đến 7 giờ sáng) đồng thời xây Thánh-Thất
và xây bờ thành, ngơ cùng một lượt. Bổn đạo
nhà quê thợ xây hồ, thợ mộc, lao công thay đổi
nhau kéo ra, gạo thóc, bí, bầu, mít, chuối tấp
nập chở về bằng thuyền, bằng xe lửa,
xe hơi hoặc đi bộ, nhờ vậy mà nhân công, lương
thực rất dồi dào. Tài chánh th́ bổn đạo
Quảng Nam đóng góp phần nào, c̣n về trong Nam
vận động gởi ra. Công việc thật hào
hứng sôi nổi, tiếng đồn vang đến
khắp thôn quê. Lớp người đến xin nhập
Đạo, lớp người đi coi lẩn lộn
với người làm, trật tự kiểm soát thật
là mệt nhọc, dịp ấy có một số đồng
bào nghèo hoặc lao công thành phố đến bửa vào
ăn uống như bổn đạo, Đức Ngọc
Chưởng Pháp biết rơ nhưng khuyên ban trật
tự đừng xua đuổi họ, v́ chỉ có
một dịp thôi và đó cũng là phổ độ,
một người ăn sẽ có năm ba người
trả, không sao!
Đức độ từ bi hỷ xă của Đức
Ngọc Chưởng Pháp làm cho mọi người cảm
phục. Từ đó một đồn ra năm, ra mười
gây ảnh hưởng tốt cho việc mở đạo,
truyền đạo sau này vậy.
Thấm thoát hai tuần lễ qua, c̣n một tuần
nửa đến ngày mùng 8 tháng 4 Mậu-Dần (1938) ngày
lễ khánh thành Thánh Thất Trung-Thành. Tại SàiG̣n có Thánh
lệnh từ trước dạy Cụ Nguyễn Phan Long,
Tổng Trưởng Liên Ḥa Tổng Hội, ra chủ
tế khai mạc Đại Hội Long Vân Đệ Bát và
đọc diễn từ bằng Pháp văn chính thức công
khai mối Đạo tại Trung Kỳ. Quí vị bác sĩ
Trương Kế An, Giáo Sư Trần Văn Quế, Phan
Trường Mạnh, Nguyễn văn Kinh ra thuyết đạo,
Quí chức sắc hướng đạo và bổn đạo
Tiên-Thiên, Minh-Chơn Đạo, Liên-Ḥa Tổng-Hội ra
dự Đại Hội rất đông đảo. Dịp
này Cụ Nguyễn văn Phùng điều đ́nh với
sở hỏa xa mướn luôn một wagon-đôi xe
lửa đưa gần 400 bổn đạo ra Tourane.
Tại Quảng Nam cũng có lệnh Thiêng Liêng
dạy Đạo Trưởng Lê Kim Tỵ cùng quí vị
Nguyễn Quang Châu, Trần Công Bang, Nguyễn Đán,
Nguyễn Hồng Phong hướng dẫn hàng trăm
bổn đạo lên tận ga lớn Tourane để
đón phái đoàn, Đức Ngọc Chưởng Pháp và
Ngài Lê Trí Hiển th́ đón tại Trung Thành Thánh
Thất, va hàng ngàn bổn đạo nam nữ sắp hàng
hai bên đường từ Thánh Thất đến nhà ga
để đón mừng.
Đúng 19 giờ ngày mùng 7 tháng 4
Mậu-dần chuyến tàu hỏa tốc hành từ SàiG̣n
đến, hướng dẫn phái đoàn Cụ
Nguyễn Phan Long bận quốc phục đi dưới
Đạo kỳ, kế đến quí chức sắc hướng
đạo và bổn đạo miền Nam. . . Tại sân
nhà ga, Đạo Trưởng Lê Kim Tỵ cũng bận
quốc phục áo dài trắng, khăn đóng đen túc
trực sẳn dưới Đạo kỳ hướng
dẫn toàn đạo miền Trung nghinh đón. Hai bên
gặp nhau mừng vui khôn xiết, và sắp xếp thành
hai hàng, Đạo Trưởng Lê Kim Tỵ và Nguyễn
Phan Long đi đầu song song dưới hai Đạo
kỳ, đến quí chức sắc hướng đạo,
bổn đạo Nam và Trung tiếp theo sau.
Lúc ấy tháng tư ta, nhằn đầu mùa hè, tiết
trời miền Trung nắng ráo, đêm ấy lại
nhằm bửa có trăng non, quang cảnh gió mát, trăng
thanh,giúp ḷng người càng thêm phấn khởi. Từ
nhà ga xe lửa Tourane về đến Thánh Thất Trung-Thành
khoảng đường bộ 2 cây số rưởi, hàng
hàng chức sắc hướng đạo và đạo
đồ Nam Trung tuần tự diễn hành làm nổi
bậc thành phố Tourane một màu trắng xóa dọc
theo hai bên đường, bổn đạo miền Trung
kẻ cờ người lồng đèn phất phới chào
mừng, ngoài ra hàng vạn đồng bào các giới chen
lấn nhau xem "rước lễ Cao Đài" làm huyên
náo cả phương trời.
Giờ Tư đêm mồng 7 rạng
mồng 8, Đức Ngọc Chưởng Pháp Trần
Đạo Quang chủ lễ dâng sớ khánh thành Thánh
Thất Trung Thành. Ngày mùng 8 buổi sáng từ 8 giờ
tiếp rước quan khách, có Công Sứ Tourane đến
dự, 12 giờ trưa Cụ Nguyễn Phan Long chủ
lễ khai hội Long-Vân đệ bát, 21 giờ Cụ
Nguyễn Phan Long nhân danh Tổng Trưởng Liên Ḥa
Tổng Hội đọc diễn từ Pháp văn chính
thức công khai mối đạo tại Trung-Kỳ,
tiếp đến quí vị Phan Trường Mạnh, bác
sĩ Trương Kế An thay nhau thuyết đạo.
Đêm ấy khán thính giả thật là đông đảo
cả đời lẩn đạo khoảng trên ba ngàn người,
đặc biệt v́ nghe đồn có Cụ Nguyễn Phan
Long thuyết đạo bằng tiếng Pháp nên đa
số công tư chức Pháp và Việt đều đến
dự thính.
Đến mùng 9 lại một buổi
thuyết đạo nữa do quí vị hướng đạo
miền Nam thuyết giảng, số người đến
dự nghe cũng tấp nập đông đảo như
trước. Bởi lần đầu tiên đạo Cao
Đài được công khai tổ chức và diễn
giả là quí vị trong Nam, đạo mới người
mới, đạo Cao Đài bị cấm nay được
công khai, đó là lư do khiến mọi người mọi
giới một đồn trăm, trăm đồn ngàn
đua nhau chen lấn đi nghe và cũng đi coi.. Người
ta đông đến sân rộng Thánh Thất Trung Thành
cả ngoài đường không chứa đủ ,
lần đến dậm nát cả nửa mẫu khoai ḿ
trước Thánh Thất, chủ đất phải vào thưa
ban tổ chức , Đức Ngọc Chưởng Pháp khuyên
chủ đất hăy yên tâm để đồng bào
đứng nghe, nếu có thiệt hại bao nhiêu sau khi khánh
thành xong Ngài sẽ bồi hoàn, lễ xong,chủ đất
chỉ nhật bồi thường chút ít và sau gia đ́nh
ấy cũng nhập đạo.
Lễ chính thức cử hành xong, Ngày
mồng 9 Cụ Nguyễn Phan Long về SàiG̣n trước,
Mồng mười quí chức sắc và bổn đạo
mới về sau, Đạo Trưởng Lê Kim Tỵ
một tuần lễ sau nửa sắp đặt mọi
việc rồi cũng về, chỉ c̣n Đức
Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang ở
lại.
Dịp lễ khánh thành mùng 8 tháng 4 này
Đức Ngọc Chưởng Pháp chứng minh buổi
lễ đặc biệt lịch sử cho quí vị hướng
đạo Minh Sư Trần Nguyên Chất, Huỳnh
Ngọc Trác qui hiệp về Đạo Cao Đài và
về sau quí vị này trở thành bậc hướng
đạo cao cấp trong Hội Thánh Truyền Giáo, và
tiếp theo một số quí chức sắc bổn đạo
Minh Sư cũng xin về qui hiệp.
Sau lễ khánh thành Thánh Thất Trung-Thành
và Long Vân đại hội tổ chức rầm rộ như
nói trên, những nhân vật miền Nam danh tiếng
miền Nam tham dự như quí Cụ Nguyễn Phan Long, Cao
Triều Phát, Lê Kim Tỵ, Nguyễn Thế Hiển,
Nguyễn Bửu Tài, Trương Kế An,Trần Văn
Quế (mặc dù cụ Trần Văn Quế hồi
ấy không ra Trung) v.v. . . Đặc biệt Đức
Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang, một
bậc chân tu đức hạnh phi phàm như một
vị Bồ Tát tại thế, tạo nên không khí
bừng dậy cho cơ đạo miền Trung, chẳng
những ở Tourane mà khắp miền quê các tỉnh
Thừa-Thiên, Quảng-Nam, Quảng-Ngăi, B́nh-Định
tiếng đồn vang dội, lần hồi người
theo đạo ngày càng đông.
Đặc biệt tại Quảng Nam (lúc
bấy giờ chưa có Quảng Tín) phần lớn
bổn đạo Minh-Sư đều về với Cao-Đài,
nên sau ngày lễ 3 tháng, số bổn đạo từ trên
3000 vọt lên trên 7000 người. Nhất là h́nh ảnh
Đức Ngọc Chưởng Pháp in sâu vào ḷng người
dân miền Trung trong đạo cũng như ngoài đời
cho đến ngày nay vẫn thường ca ngợi.
Đức Ngọc Chưởng Pháp ra
Trung lần này lâu nhất, Ngài ở đến 9 tháng,
sứ mạng Thiêng Liêng của vị Sư-Tổ đối
với bổn đạo Tam-Giáo Minh-Sư Ngài đă
giải quyết chu toàn, sự nghiệp công khai mối
Đạo Trung, Bắc-Kỳ, Ngài đă góp phần khai sáng
và lănh đạo đắc lực. Ngài sắp sếp
mọi việc xong giao lại cho quí vị hướng
đạo Quảng Nam , Ngài định ra Huế thăm do
lời mời của Cụ Cả Cao Như Hối, cao
đồ của Ngài rồi sẽ về Nam.
Nhưng bất ngờ có lệnh Thiêng
Liêng từ Ṭa Thánh Minh Chơn Đạo Hậu Giang
triệu hồi Ngài về gấp để lo việc
tạo tác Bát Quái Đồ Thiên ở Hà Tiên, làm Ngài
phải thôi việc đi Huế, cùng với đệ
tử tâm phúc Đạo Tỷ Thanh Sang về Nam, để
hai đệ tử Đạo Năm Trần Công
Nghiễm, và Đạo Một ở lại lập công
tại Trung Thành.
Lễ tiễn đưa Đức
Ngọc Chưởng Pháp về Nam thật là đông đảo,
đủ mặt quí vị hướng đạo
Nguyễn Quang Châu, Trần Công Bang, Nguyễn Đán, Ngài Lê
Trí Hiển, Trần Nguyên Chất, Huỳnh Ngọc Trác,
Nguyễn Hồng Phong một số công tư chức
Tourane và đạo hữu. Giả từ bổn đạo,
Đức Ngọc Chưởng Pháp để lại
những kỷ niệm sâu xa, những lời lẽ
ngậm ngùi như Ngài đă dự trù lần này là
lần cuối cùng Ngài sẽ không ra Trung nữa.
Tại miền Nam những ngày sau cùng.
Cuối tháng 4 Năm Mậu-Dần (1938) , từ
biệt chức sắc bổn đạo miền Trung,
Đức Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo
Quang cùng đệ tử Thanh San về SàiG̣n, nghỉ ngơi
tại Linh Quang Tự một tuần sau Ngài thẳng đến
Hội Thánh Minh Chơn Đạo Hậu Giang thọ tuân
Thánh lệnh, trao đổi ư kiến cùng Đạo Trưởng
Cao Triều Phát rồi Ngài qua Hà Tiên lo việc tạo tác
Bát Quái Đồ Thiên.
Bát Quái đồ Thiên,
tôi chưa được hân
hạnh đến xem nhưng đọc qua Thánh Giáo nói
về ngôi Bát Quái này, và lời tŕnh bày của quí
vị hướng đạo, quí đạo tâm đă
đến làm công quả th́ thật theo dự đồ
là một Thánh Đường kỳ vĩ. Về h́nh
thức xắp xĩ với Hội Thánh Tây Ninh, về
cảnh trí th́ đặc biệt hơn nhiều.
Hà Tiên một tỉnh nhiều thắng cảnh danh lam
nhất miền Nam nước Việt.
Ở đây không tiện diễn tả hết, chỉ nói
về vị trí Bát Quái Đồ Thiên đặt giữa
hai núi Đại Tô Châu và Tiểu Tô Châu, chánh điện
trông về hướng bắc có Đông Hồ, quang
cảnh thủy tú sơn thanh, về đêm có sao Bắc
Đẩu soi sáng. Hậu điên xây về phía Nam
vịnh Thái Lan , trời bể mênh mông nh́n ra năm châu
thế giới, thật đáng là một kỳ quang
phối hợp giữa thiên nhiên và nhân tạo vậy.
Vị trí Bát Quái Đồ Thiên nguyên trước
kia là ḍng suối cạn giữa hai núi Đại Tô Châu
và Tiểu Tô Châu suốt từ Đông Hồ ra bể. Vâng
Thánh Lệnh toàn đạo Hậu Giang (Minh Chơn Đạo
và Tiên Thiên) mỗi ngày hàng ngàn người công quả
nỗ lự xe đất lấp bằng ḍng suối
ấy để xây cất Bát Quái Đồ Thiên.
Bát Quái Đồ Thiên được mô
tả h́nh dáng vĩ đại, có 8 ṭa gọi là Bát Quái
Đồ, xây cao 3 từng lầu, vật liệu bầng
ciment cốt sắt.
Công cuộc kiến thiết qui mô này toàn
bổn đạo Hậu Giang Minh Chơn Đạo và Thiên
Thiên đều tham gia, nhất là sự đóng góp tích
cực của quí vị chủ sắc hướng đạo
có danh vị to, tài sản lớn trong Đạo cũng như
ngoài đời, như Cao Triều Phát, Phan Văn
Thiệu, Phan Văn Tông, Nguyễn Thế Hiển,
Nguyễn tấn Hoài, Hội đồng Thứ, Lê Kim
Tỵ v.v. . .Đặc biệt có ông Lê Văn Thanh
đương kiêm chủ quận Châu Thành Hà Tiên tận
t́nh giúp đở, nếu không có ông Phủ Thạnh cũng
khó mà làm được. Về sau Thiêng Liêng hóa độ
ông này nhập đạo.
Đức Ngọc Chưởng Pháp đến
Hà Tiên vào cuốt tháng 5 Mậu-Dần (1938) nhiện
vụ của Ngài, Thiêng Liêng gọi đến để
chủ tŕ tinh thần kêu gọi toàn đạo tham gia công
quả, vận động các nhà hảo tâm trong và ngoài
đạo góp phần vào công cuộc kiến thiết qui
mô này.
Ngài ở Hà Tiên một thời gian, rồi lại về
Bạc Liêu Hội Thánh Minh Chơn Đạo để có
ǵ hội ư Đạo Trưởng Bảo Đạo Cao
Triều Phát và Ngọc Đầu Sư Phan Văn
Thiệu, v́ lúc bấy giờ Ṭa Thánh Hậu Giang tại
Giồng Bốn c̣n đang mở mang thêm.
Ở Minh Chơn Đạo Bạc Liêu, rồi Ngài lại
qua Bát Quái Đồ Thiên Hà Tiên, rồi Ngài lại đi
các nơi vận động tài chánh, lương thực
, công quả cho công cuộc tạo tác, thỉnh thoảng
Ngài mới về Linh Quang Tự an nghĩ.
Như thế được hơn hai năm,
đến cuối năm 1940, Bát Quái Đồ mới xây
cất được 4 ṭa chưa xong, ước lượng
toàn diện được 40% th́ gặp lúc t́nh thế khó
khăn. Đệ II thế chiến bùng nổ đến
hồi quyết liệt, quân Đức, Ư uy hiếp Âu Châu.
Chính quyền bảo hộ Pháp ở Việt Nam cũng
khủng bố Đạo quyết liệt. Không riêng
ở Trung-Kỳ, mà khắp cả Nam-Kỳ các Thánh
Thất, Thánh Tịnh đều bị đóng cửa niêm
phong, triệt hạ chử Vạn, lấy cớ là
chử Vạn là dấu hiệu cờ Đức Quốc
Xă. Ở Trung-Kỳ lại triệt hạ luôn Thiên Nhăn, v́
bảo Thiên Nhăn là biểu hiệu mặt trời Nhựt
Bổn, Quí chức sắc cao cấp từ Ṭa Thánh Tây-Ninh:
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Khai Pháp Trần
Duy Nghĩa, Sĩ Tải Hiển, Phối Sư Nguyễn Văn
Phấn, Trần Ngọc sáng, Giáo Sư Thái Văn Gấm.
Hội Thánh Tiên Thiên: Chưởng Pháp Lê Kim Tỵ,
Nguyễn Thế Hiển, Phan Văn Ṭng, Hội đồng
Thứ, Đoàn Văn Chiêu, Huỳnh Văn Ngăi, Trung
Kỳ th́ có quí vị Nguyễn Quang Châu , Trần Nguyên
Chất, Huỳnh Ngọc Trát, Nguyễn Đán , Trần
Nguyên Chi và số đông chức sắc trung cấp,
bổn đạo không kể hết đều bị
bắt bớ lưu đày khắc các trại an trí trong nước
và cả Madagascar Phi Châu.
V́ vậy mọi sinh hoạt đạo có tính
cách h́nh thức đều phải đ́nh chỉ, công
việc tạo tác Bát Quái Đồ Thiên cũng đành
tạm gát lại.
Bậc hướng đạo ra đi.
Từ năm 1941 (Tân-Tỵ) về sau, Đức Ngọc
Chưởng Pháp thường trú tại Linh Quang Tự v́
lư do sức khoẻ cần nghỉ ngơi, một phần
chính quyền Pháp cũng ngăn cản mọi sự đi
lại của người Đạo. Các Thánh Thất, Thánh
Tịnh thường xuyên bị kiểm soát tuy đă
đóng cừa, Linh Quang Tự của Ngài cũng bị
theo dơi. Mọi việc đạo th́ các nơi thường
xuyên cho người về Linh QuangTự xin giáo thị
của Ngài hoặc Ngài cho người liên lạc các nơi
dặn ḍ bổn đạo quyết tâm tŕ thủ chờ
ngày hạnh thông sẽ đến.
Năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp, toàn
đạo reo mừng tự động mở cửa các
Thánh Thất, Thánh Tịnh. Ngài khuyên hăy b́nh tỉnh trong
cương vị tu hành, đời c̣n nhiều khó khăn
thử thách, hăy kiên tâm nhẩn nại giữ lấy
" Bộ thiết giáp đạo đức"
của Thầy mà che thân. Người tu hành lúc đắc
thế không kiêu căn, khi thất thế cũng không chán
nản.
Quả thật, mấy tháng sau nhiều biến cố
xảy ra, tiếp đến chiến tranh Việt-Pháp khai
diễn. Mùa xuân năm Bính-Tuất, chiến loạn
bộc phát khắp miền Nam, bổn đạo đồng
bào bước vào cảnh lầm than cơ cực, thêm tin
bổn đạo miền Trung lại bị sát hại, Ngài
vô cùng đau xót, nhưng biết ḿnh sắp từ
giả cơi đời,nên gọi các đệ tử thân
cận bên Ngài căn dặn " Thế sự vô thường,
đạo đức duy nhơn ", nhớ rằng khi
đạt th́ cùng với thiên hạ san sẻ điều
lành, lúc cùng th́ tu luyện lấy thân tâm, tránh điều
khổ lụy và cầu đến đạt đạo
giải thoát". Dặn ḍ các đệ tử mọi
việc, giờ Dậu ngày 17 tháng2 năm Bính-Tuất
(1946) Đức Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo
Quang đăng Tiên, Ngài hưởng thọ 77 tuổi.
Và sau đó, Ngài giáng cơ tại Ṭa Thánh
Hậu-Giang chứng quả " Vạn Đức Đại
Tiên".
Đức Ngọc Chưởng Pháp đăng Tiên
nhằm lúc chiến tranh Việt-Pháp đang khốc
liệt, quí chức sắc và bổn đạo khắp nơi
không liên lạc được, chỉ những bổn
đạo trong phạm vi SàiG̣n-Gia Định gặp
gở nhau nhưng rất khó khăn, nên Thánh lễ an táng
nhục thể Ngài cử hành lặng lẽ và an táng
tại mộ địa của chùa Linh Quang ở gần
chùa.
Lúc bấy giờ chùa Linh Quang ngoài số
bổn đạo tới lui, chỉ c̣n các đệ
tử thân cận nhứt của Ngài, quí đạo cô Vơ
thị Thại, Vơ thị Nhạn (hiện nay qui liễu),
Đạo sĩ Trần Chuân (hiện nay Lăo Sư Trần
Đạo Cơ) và quí đạo Tỷ Nguyễn Diệu
Trinh, Lê Tịnh Đăng và Nguyễn Diệu Sen v.v..
.vẫn giử theo đường lối tu tŕ Tam Giáo
Minh-Sư trong nôm chùa chiền, hương khói phụng
sự Ngài, và cũng giữ ǵn đạo nghiệp Linh
Quang Tự do 12 Lăo Sư chuyễn thác cho Đức Ngài
từ trước.
Năm 1953, chiến tranh lan tràn, trường
bay Tân Sơn Nhất càng mở rộng, chùa Linh Quang và
mộ địa bắt buộc phải dời ra khỏi
phạm vi sân bay. Trước t́nh thế không làm sao hơn
được, Đạo sĩ Trần Chuân cùng các đệ
tử Đức Ngài phải dời chùa Linh Quang lên
Hốc Môn kiến thiết lại tuy nhỏ bé nhưng cũng
cố duy tŕ để giữ lại di tích của Đức
Ngài.
Về phần mộ Đức Ngài th́ Đại
sĩ Trần Chuân và quí chức sắc Cơ Quan
Truyền Giáo tán trợ tạm thời thiên táng về nghĩa
địa Gia Định họ Lê sau Minh-Kiến-Đài
tại Thông Tây Hội, G̣ Vấp, tỉnh Gia Định và
mong một dịp nào thuận lợi quí Hội Thánh
Truyền Giáo và Minh Chơn Đạo hợp cùng chư
đệ tử sẽ xin di táng mộ phần Ngài một
lần nữa đưa về Ṭa Thánh Tây-Ninh hoặc
đến nơi Thánh-Lâm mộ địa khang trang xây dựng
một bửu tháp uy nghi để kỷ niệm bậc hướng
đạo chân tu thánh-đức suốt đời v́ Giáo-Hội,
xă hội nhân sinh.
Kết luận.
Đọc qua lược sử Đức
Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang, chúng ta người
đi sau không khỏi ngậm ngùi bái phục, một bậc chân
tu thánh-đức phi phàm, một Bồ Tát tại thế,
từ thưở bé thơ đă phát tâm mộ đạo.
Năm 13 tuổi Ngài đă xin thọ giáo nhập đạo
Tam Giáo Minh Sư, năm 16 tuổi Ngài đă phát đại
nguyện tu cầu giải thoát cho đến năm 45
tuổi, 33 năm trời trên con đường tu kỷ
độ nhân, Ngài đă lập nhiều đạo
nghiệp vẽ vang qui tụ nhiều đệ tử
khắp hai miền Nam và Trung-kỳ,Ngài đă thọ phong
qua chín cấp Giáo-Phẩm đạo Minh-Sư, và lần
này Tổ-Sư Trần-Đạo-Khánh phong cho Ngài
Thập-Địa Thái-Lăo-Sư là phẩm vị cao
nhất của đạo Minh Sư.
Hành Sơn
|