Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa

 

LƯỢC SỬ ĐỜI NGÀI NGÔ MINH CHIÊU


Lilas, ngày 07/09/1999 - CHÍ TÍN

1- Lược sử đời Ngài Ngô Minh Chiêu

Sanh ngày mùng 7 tháng giêng, năm Mậu Dần, nhằm ngày 08/02/1878, tại quận B́nh Tây, tỉnh Chợ Lớn. Liễu đạo ngày 13 tháng 3 năm Nhâm Thân, tức ngày 18 tháng 04 năm 1932 tại Cần Thơ, hưởng dương 54 tuổi. Ngài đă được bổn đạo an táng và xây bảo tháp tại nghĩa trang Chiếu Minh tọa lạc trước Thánh đức Tổ Đ́nh cách châu thành Cần Thơ lối 3 cây số.

Sanh trưởng trong một gia đ́nh nghèo, đông con, Ngài có 9 anh chị em, nhưng không may có 2 người mất sớm, c̣n lại kể cả Ngài gồm 2 gái và 5 anh em trai. Bận kế sinh nhai, cha mẹ Ngài phải rời bỏ nhà máy B́nh Tây (Chợ Lớn) để theo chủ ra tận Hà Nội, miền Bắc Việt Nam nên phải gửi các con lại cho người em gái nuôi dưỡng.

Xa t́nh phụ mẫu rất sớm từ khi lên bảy, Ngài đă được người cô dưỡng nuôi và cho đi học tiểu học tại Mỹ Tho. Nhờ bẫm chất thông minh, Ngài nhận được học bổng để tiếp tục học tiếp chương tŕnh trung học tại trường Chasseloup Laubat tại Sài G̣n, và đổ bằng Thành Chung vào năm 21 tuổi.

31/12/1902, Ngài được bổ nhiệm làm việc tại sở Tân Đáo (sở di trú) , sau đó đổi về dinh Thượng Thơ thành phố Sài G̣n. Thuyên chuyển về làm việc tại Ṭa bố tỉnh Tân An ngày 01/05/1909, Ngài tiếp tục học sự và thi đổ Tri huyện năm 1917.

Bất đồng ư kiến và không muốn liên can đến việc làm không liêm chính của một số bạn đồng liêu, Ngài xin đổi đi Hà Tiên, một tỉnh ở cực nam nước Việt, cạnh biên giới Việt Miên và vùng vịnh Thái Lan.

Nhờ vào cảnh trí xinh đẹp, trời nước mênh mông, núi non thanh lịch hữu t́nh, nên Ngài thường hay đến thạch động để cầu Tiên và đă được các đấng Thiêng Liêng dẫn dắt đưa về nẻo Đạo huyền vi.

Trấn nhậm quận Dương Đông, trên đảo Phú Quốc, trong vịnh Xiêm La (Thái Lan). Ngài đă ngộ được Đạo Trời và đă được Đức Cao Đài Tiên Ông trực tiếp truyền trao bí pháp tu luyện cho đến khi đắc đạo. Cũng tại giữa huyện đường Dương Đông, Ngài đă 2 lần tiếp kiến ánh nhiệm mầu Thiên Nhăn xuất hiện với hào quang chói ḷa rực rỡ, để rồi khiến Ngài tiếp nhận để làm biểu tượng mà thờ phượng Đức Chí Tôn, giáo chủ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức tôn giáo Cao Đài.

2- Đức độ của Ngài Ngô Minh Chiêu

Vốn là người con chí hiếu với mẹ cha, phụng dưỡng phụ mẫu chí t́nh, nhất là đối với bà mẹ già thường hay đau yếu. Ngài hay đi hầu Đàn Tiên để xin toa thuốc trị bệnh cho mẹ, có khi ở Thủ Dầu Một, có lần tại Cái Khế, tỉnh Cần Thơ. Nhân dịp này, Ngài thường được các đấng Thiêng Liêng giáng cơ nhắc nhở, khuyến khích Ngài con đường tu hành.

Với vợ con, Ngài đối xử trọn vẹn bổn phận chồng, cha, cấp dưỡng lương phạn đầy đủ hàng tháng và chăm lo dạy dỗ con cái theo truyền thống đạo đức dân tộc. Trong hoàn cảnh thanh bần của một vị quan thanh liêm, mẫn cán, thương dân và thường hay giúp đỡ người nghèo khó, Ngài thường du hành ban đêm để t́m hiểu đời sống của người dân. Ở Tân An, người ta kể rằng Ngài thường hay giúp đỡ dân nghèo bằng cách chờ tối, đến nhét tiền vào cửa mà không cho người khác thấy, Ngài luôn binh vực người nghèo thế cô, trong việc quan, Ngài hay ḥa giải và khuyên dân chẳng nên kiện cáo để tránh thưa kiện đến công đường.

Cũng v́ đối xử dễ dăi với tù nhân chánh trị nên Ngài đă đă bị Pháp nghi kỵ, theo dơi, sau cùng thuyên chuyễn về Sài G̣n vào tháng 07 năm 1924.

3- Cách Tu Thân của Ngài

Vừa làm việc để trả nợ đời, vừa dốc ḷng vào việc đạo, phép tu luyện của Ngài Ngô Minh Chiêu dựa vào lư thuyết: hễ Nhơn Đạo chu toàn th́ Thiên Đạo cũng sẽ hoàn thành cùng một lúc. Vâng lời dạy Đấng Thiêng Liêng do bởi: "Kín ngoài rồi lại kín trong", Ngài ít khi cho biết phương pháp tu hành của ḿnh.

Tại Dương Đông Phú Quốc, sau 3 năm chịu nhiều kham khổ được Đức Cao Đài Tiên Ông chân truyền đạo pháp và kiên tŕ tu luyện, Ngài đă được Đức Cao đài Tiên Ông ban cho 4 câu thơ

Ba năm lao khổ độ nhứt nhơn,

Mắt Thầy xem rơ ḷng dạ chắc,

Thương v́ con trẻ hăy c̣n thơ,

Gắng chí tầm phương biết đạo mầu.

Tu luyện theo phép Thượng Thừa, chịu trường trai tuyệt dục, không tham luyến sắc, tài,danh, lợi, Ngài c̣n phải hàng ngày bốn buổi khó nhọc công phu, không hề xao lăng. Có người hỏi, Ngài dạy rằng: hễ tu th́ phăi chịu cho ma nó khảo th́ mới đặng thành v́ vô ma khảo, bất thành Đại Đạo và Đạo cao nhứt xích, th́ Ma cao nhứt trượng, mà nếu Đạo cao nhứt trượng th́ Ma cao đầu thượng, có vào lửa đỏ mới biết đặng vàng cao.

Ngài sống giản dị và thanh đạm. Mặc dù làm quan phủ phải phục sức mủ áo chĩnh tề nơi công chúng, nhưng tại gia, Ngài chỉ mặc áo thô, đi giày vải, không thích dùng cao lương, mỹ vị, chỉ ăn tương chao, rau cải, dưa muối đạm bạc. Trong nhà Ngài chỉ đặt vỏn vẹn một chiếc bàn thờ Thầy (Đức Chí Tôn), một cái bàn khác để dùng cơm, và một chiếc ghế để ngồi thiền. Tiền bạc có dư, Ngài đem giúp đỡ người nghèo khó, Ngài c̣n dạy đệ tử rằng: nếu có phước, th́ chớ nên hưởng tận, phải biết làm phước, bố thí âm chất, nhưng có làm th́ chớ khoe khoang, mong được người trả ơn hay để cầu phước cho con ḿnh... Ngài cũng c̣n dặn đệ tử: hễ có tu, th́ đừng cho người biết ḿnh tu, bằng cách này hay cách khác, v́ cái áo không phải là thầy tu. Luôn biết nhẫn nhục, nhẫn nại đi cho đến nơi, đến chốn, phải noi gương người quân tử, tánh như nước, lúc nào cũng phải hạ ḿnh dưới thấp, lấy thấp làm cao, lấy dở làm hay, không luận người khen chê cao thấp, phải giữ sao cư trần mà bất nhiễm trần, như sen mọc giữa bùn mà không lấm mùi bùn.

Ngài truyền Đạo chỉ có một kinh (kinh Cảm Ứng) và một pháp (pháp Vô Vi) mà thôi.

Một kinh Cảm Ứng để hằng đọc hàng ngày và noi theo đó dể mà sửa đi điều sai trái. Một pháp Vô Vi thanh tịnh, lấy một chữ không làm gốc, có nghĩa không ham không muốn, không tính không toan, không giận không hờn.

Ngài không tự tôn, tự cao, không chịu cho người gọi bằng Thầy, không chịu cho người tôn thờ, lạy lục. Muốn thọ pháp, Ngài khuyên đến bàn thờ Đức Chí Tôn mà xin keo, khi được keo và đă cam kết giữ đúng giới luật th́ Ngài mới chỉ Đạo cho.

Ngài chọn lọc người có căn cơ mới truyền đạo, Ngài thường bảo các đệ tử rằng: Chiêu học Đạo nơi Thiên Thai, ăn lộc nước, giữ bổn phận làm tôi con lo tu tâm dưỡng tánh, không xưng ngang vai với người. Cao Tiên truyền dạy một kinh Cảm Ứng và cách tu thân, nào có gạt người để cho ḿnh vui hưởng trên sự cực nhọc của người khác. Một kinh một pháp đủ rồi.

4- Gương Tu Chứng Tại Tiền

Ngài ngồi liễu Đạo trong lúc qua phà trên sông Tiền Giang, một trong 9 nhánh của sông Cửu Long (Mékong), vào lúc 3 giờ chiều ngày 13 tháng ba, năm Nhâm Thân, đúng theo như vần thơ 4 câu mà Đức Cao Đài Tiên Ông đă tiên tri cho Ngài biết trước:

Giờ này Thầy điểm thâm công,

Ngày sau con sẽ cỡi rồng về nguyên.

Ngoài trong sạch tợ Bạch liên

Khá ḷng ǵn giữ mối giềng chớ xao

Các đệ tử đưa nhục thể Ngài về tại thảo lư Cần Thơ, nơi xây dựng Thánh Đức Tổ Đ́nh Chiếu Minh sau này. Điều kỳ lạ dù liễu Đạo đă 3 ngày mà nhục thể Ngài vẫn c̣n mềm mại và tươi như hồi c̣n sống, điều đặc biệt là mắt trái của Ngài vẫn mở rộng và tinh anh như c̣n tại thế, c̣n mắt phải th́ khép như người b́nh thường. V́ lư do có quá nhiều người trong vùng đến chiêm ngưỡng trước ấn chứng tại tiền của bậc chân tu, nên gia đ́nh và các đệ tử đành phải tẫn liệm và chôn theo như phép nước.

Nhục thể Ngài được liệm ngồi, để trong một quan tài h́nh tháp, có sáu cạnh (6 mặt là ư nghĩa của: Lục Tự Chơn Ngôn đó là Thuần Dương Nhất Mục hay c̣n do ở 6 chữ Nam Mô Cao Đài Tiên Ông) chứng minh Ngài đă đắc thành chánh quả.

Theo như đệ tử của Ngài thuật lại, th́ Ngài đă đắc đạo ngay khi c̣n sanh tiền, Ngài đă xuất thần để giáng cơ cho một vài Đàn giữa ban ngày và tại Cần Thơ, bằng cách bảo cho các đệ tử biết trước những ǵ họ muốn và định làm trong lúc Ngài đang ngồi tịnh ở tư thất tại Sài G̣n (xem lịch sử Cao Đài, phần Vô Vi của Đồng Tân, và lịch sử Đức Ngô Minh Chiêu của phái Chiếu Minh xuất bản)

5- Cơ Phổ Độ

Khi được đổi về làm việc tại Sài G̣n, vào cuối năm Ất Sửu (1925), Đức Cao Đài Tiên Ông mới dạy Ngài đem mối Đạo truyền ra. Trước tiên Ngài độ dẫn được: ông Phủ Vương Quang Kỳ, ông phán Nguyễn Văn Hoài, ông Vơ Văn Sang và ông Đốc học Đoàn Văn Bản (sau này cai quản Thánh Thất Cầu Kho, là Thánh Thất Cao Đài đầu tiên). Kế đến, Ơn trên (qua tá danh của Đức Cao Đài Thượng Đế là A, Ă, Â lúc ban đầu) đă khuyên nhóm xây bàn cầu cơ gồm có các ông: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu đến gặp Ngài Ngô Minh Chiêu để được Ngài hướng dẫn cách thờ Thiên Nhăn như ngài đă 2 lần tiếp kiến ở Phú Quốc.

Nhằm đêm Giáng Sinh, năm 1925, Đức A, Ă, Â tá danh từ lâu nay mới cho các người hầu đàn biết rằng: Người chính là Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam Phưong. Bấy lâu nay Thầy ẩn danh là để mục đích d́u dắt các con đường đạo đức hầu sau này sẽ giúp Thầy khai Đạo.

Tiếp đó, một hôm vào hạ tuần tháng chạp năm Ất Sửu, Đức Cao Đài Thượng Đế dạy các ông Trung, Cư, Sang, Hậu phải vâng lệnh chung hiệp với Ngài Ngô Minh Chiêu lo khai Đạo và c̣n dặn các vị trên rằng: Trong mọi việc phải do nơi Chiêu là anh cả. Đàn cơ Tư thời ngày mùng một Tết năm Bính Dần (13/02/1926), Đức Cao Đài Thượng Đế có giáng dạy rằng: Chiêu buổi trước có lời hứa truyền Đạo để mà d́u dắt chúng sanh. Nay phải y lời mà dẫn dắt các môn đệ ta vào đường đạo đức cho đến lúc đắc thành, chẳng nên tháo trút. Phải thay mặt ta mà dạy dỗ chúng nó. Trung, Kỳ, Hoài, các con hăy thay mặt Chiêu mà đi độ người. Nghe và tuân theo.

Đêm vía Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế mùng 9 tháng giêng năm Bính Dần (21/02/1926). Ngài Ngô Minh Chiêu mới xin Đức Cao Đài Thượng Đế lấy tên mấy người môn đệ đầu tiên đề cho một bài thơ kỷ niệm. Đức Chí Tôn đă ban cho 4 câu như vầy:

Chiêu, Kỳ, Trung, độ dẫn Hoài sanh,

Bản đạo khai Sang, Quí, Giảng thành

Hậu, Đức, Tắc, Cư thiên địa cảnh

Hườn, Minh, Mân đáo thủ đài danh

** Các vị Chiêu, Kỳ, Trung, Hoài, Bản, Sang, Quí, Giảng, Hậu, Tắc, Cư là 12 vị tông đồ đầu tiên, c̣n 3 vị sau Huờn, Minh, Mân là các vị mới vào hầu Đàn

Vâng lệnh Đức Chí Tôn, ngày 23 tháng tám năm Bính Dần (29/06/26), ông Lê Văn Trung hiệp cùng 247 môn đệ khác đứng ra lập tờ khai Đạo gửi đến chánh phủ Pháp qua Thống Đốc Nam Kỳ là ông Le Fol (trao toàn quyền Pasquier ngày 07/10/26).

Đến đây Ngài Ngô Văn Chiêu nhận thấy đă xong nhiệm vụ xây dựng giềng mối cho cơ Phổ Độ, nhường lại cho ông Trung quyền Giáo Tông, để trở về ẩn tu, tịnh luyện cho được thành công viên măn. Sau đó ông đă khai mở cơ tuyển độ Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh, để dẫn độ cho một số người đại nguyên căn quyết cầu tu giải thoát, hầu tu chứng tại tiền cho nhơn sanh tin tưởng nơi Tân Pháp Cao Đài do Đức Thượng Đế truyền trao cho Ngài hồi c̣n ở Dương Đông (Phú Quốc) năm Tân Dậu (1920).

Cùng một đề tài:

Đức Cao Đài hóa độ ông Ngô Văn Chiêu (Lê Anh Dũng)

Gương hạnh tu của Đức Ngô Minh Chiêu (Ngọc Diêu)

 

Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh