14.- HỎA HẦU
- ĐẠO LỘ
Tư thời, đêm 15 tháng 02 năm Giáp
Dần - Đại Đạo 48 (08.3.1974).
NGUYÊN THỦY THIÊN TÔN chào mừng chư phận sự và miễn
lễ, an tọa. Tôn Sư dạy tiếp đề tài: "Hỏa Hầu" trong phẩm Thượng Thừa.
HỎA HẦU
Hỏa hầu là tiếng gọi chung trong việc dụng hỏa, tu đơn
nhưng ứng dụng phải theo từng tiết tự công phu.
Hỏa là Thần, là Chơn Ư. Hầu là
tiết tự công phu.
Công phu tu luyện có tiên hậu, có cấp huởn, có tấn thối
thời hầu.
Chẳng được việc trước lại làm sau, việc sau mà lại làm
trước; Chẳng được việc đáng cấp mà lại hoăn, hoặc đáng hoăn mà lại cấp; Chẳng
được thời đáng tấn mà lại thối hoặc đáng thối mà lại tấn.
Cũng như Lư hỏa nấu thuốc có thời hầu văn vơ, tấn thối, chỉ
tức.
Sở dĩ nên trước là trước nghiêm chỉnh nơi trong, nên sau là
sau chế ngự bên ngoài; Nên cấp là cấp ở dụng công, nên hoăn là hoăn ở ôn
dưỡng; Nên tấn là tấn khí dương lên chổ dương chưa đủ, nên thối là thối cơ âm
vừa sanh.
Cũng như giờ Tư là tấn dương hỏa, giờ Ngọ là thối âm phù.
Hai giờ Mẹo, Dậu là mộc dục. Nhưng giờ nào cũng có tấn, có thối, cũng có mộc
dục.
Trong một ngày đêm có 12 giờ, Chân ư chẳng ĺa, năm tháng
ngày giờ cũng khắc khắc dụng công tu luyện, pḥng nguy lo hiểm không hề sai
thất.
Tứ các công phu Trúc Cơ cho đến ngày viên thành Chánh Giác.
Chân hỏa là một thần cơ diệu dụng miên miên bất đoạn, Chân hầu là những Chân
tiết tự công phu của cơ Thiền Định. Không thể thiếu một; không thể đảo nghịch;
không thể gia tăng; không thể biến cải.
Bí quyết của Hỏa Hầu là theo Chơn tức mà lập. Công
phu vận hành Chơn tức phải theo tŕnh tự diễn tiến, như: thời Dương sanh, thời
Dược sản, thời Thể dược, thời Huân chưng, thời Phong cố, thời Khỉ hỏa, Tiểu
châu thiên, thời Mộc dục, thời Hỏa túc, thời Thể đại dược, thời Phục thực,
thời Đại châu thiên, thời Xuất thần... Mỗi thời có cơ dụng hỏa riêng, cho nên
chơn pháp hỏa hầu phải biện minh cho phù hợp với mỗi dụng thời để khỏi điều
sai thất.
Như giờ Tinh sanh có hầu Điều dược, Dược sản có hầu Thể
thủ, Dược quy lư có hầu Phong cố, Khỉ hỏa có hầu Vận hành, Mộc dục có hầu Đ́nh
tức, Hỏa túc có hầu Chỉ hỏa.
Nguyên khí chẳng đặng khí Hậu Thiên th́ chẳng thành dược;
Dương khí chẳng đặng âm th́ chẳng ngưng tụ. Cho nên phải dùng cái âm thần của
tâm mà ngự chế cái hỏa cường dương của thận. Tức tức quy căn th́ nguyên khí
chơn dương tự trở về.
Vận Tiên Thiên Chơn tức do chơn ư làm chủ và cán vận bên
trong nên gọi là "nội phục Thiên can cán vận" để hành hỏa Châu
Thiên. Khí hô hấp Hậu Thiên chuyển dời nguyên khí (một Ư chuyển hai Khí), khai
thông Cửu Khiếu lên Càn đănh gọi là "ngoại dụng đẩu bỉnh thôi thiên"
mà chuyển cơ hồi triền hỗn hợp cho Thần Khí quy căn.
Vậy nguyên khí do khí Hậu Thiên mà thể quy lư và cũng do
khí hô hấp luyện phanh mới tṛn công biến hóa. Nhưng khí hô hấp Hậu Thiên cũng
nhờ có nguyên khí Tiên Thiên mà nên công ứng dụng.
- Trúc Cơ thể dược, vận hành, tấn hỏa, để hỏa ôn dưỡng mộc
dục là hỏa của Nguơn Thần.
- Khởi hỏa, giáng hỏa thối phù là hỏa phanh luyện.
- Điều tức dẫn hỏa là hỏa của hô hấp.
- Khôn hỏa, Khảm hỏa, dương sanh, dược sản, nội dược, ngoại
dược, tiểu dược, đại dược là hỏa huyền khí.
Trong hỏa có dược, trong dược có hỏa. Thể luyện là hỏa, vận
hành là dược. Nói hỏa, nói dược chớ gốc nó là Thần Khí mà thôi.
Tóm lại:
- Hỏa là thế lửa hoặc vơ hoặc văn.
- Hầu là thời hầu theo từng tiết tự.
Dùng hỏa theo từng mỗi thời hầu gọi là hỏa hầu.
Trời có thời vị 12 chi. Luyện đơn cũng có hỏa hầu 12 thời.
Trời đất Hậu Thiên có cơ vận hành Châu Nhi Phục Thủy,
thuận theo sự diễn biến âm dương, nhật nguyệt, ứng theo cơ sanh cơ sát.
Tu sĩ có Châu Thiên Tức Số, ngược lại với cơ vận
chuyển Hậu Thiên gọi là Chân tức.
- Tức có chân nhân chi tức, quy tức, phàm tức.
- Tức là môi trường sống thọ, sống yểu, bịnh tật, b́nh an.
- Tức là yếu tố hổ trợ cho công phu tạo Phật, tác Tiên hay
hay hóa thành phàm phu, tục tử.
- Tức có số th́ c̣n có hạn sanh tử.
- Tức số càng ít th́ tuổi thọ càng cao.
- Tức số càng nhiều th́ tuổi thọ càng thấp.
Tức c̣n gọi là Khí, là Mạng, là hiện tượng hữu h́nh, nên
con người dứt hơi thở là chết.
Chỉ có các bậc Chân nhân dầu có dứt hơi thở vẫn sống b́nh
thường.
- Từ Tư đến Tỵ là 6 giờ dương. Dương th́ dụng tấn, là tấn
dương hỏa.
- Từ Ngọ đến Hợi là 6 giờ âm. Âm thời dụng thối, là thối âm
phù.
Cơ vận hành Châu Thiên phải theo định số, không thái quá,
không bất cập.
"Càn Khôn thác thược cổ hữu số
Ly Khảm Đao Khuê cổ hữu thời"
Công phu tu luyện phải theo đúng nguyên lư này mới hiệu
nghiệm.
- Số của Càn là cửu [9] là số của Lăo Dương.
- Số của Khôn là lục [6] là số của Lăo Âm.
- Lăo dương số ứng hiệp với Tứ Tượng, Ngũ Hành mà thành Châu
Thiên số của Dương Tư [9 x 4 x 5 = 180]
- Lăo âm số ứng hiệp với Tứ Tượng, Ngũ Hành mà thành Châu Thiên số của Âm Ngọ
[6 x 4 x 5 = 120].
- Lăo dương c̣n có cơ ứng hiệp với Tứ Tượng mà thành Châu
Thiên số của Dương Mẹo [9 x 4 = 36]
- Lăo âm c̣n có cơ ứng hiệp với Tứ Tượng mà thành Châu Thiên số của Âm Dậu [6
x 4 = 24].
Số nhuận dư chỉ dành cho hai thời mộc dục.
Tổng cộng: Tư 180 + Ngọ 120 + Mẹo 36 + Dậu 24 = 360 Châu
Thiên, như một năm có 360 ngày vậy.
Ly Khảm Đao Khuê thể hữu thời.
Khảm điển phanh oanh Kim Thủy phương.
Hỏa phát Côn Lôn âm giữ dương.
Nhị vật nhược huờn ḥa hiệp liểu.
Tự nhiên đơn thục biến thận hương.
- Thần ở tâm thuộc Ly, gọi là Kỹ
Thổ (âm).
- Khí ở thận thuộc Khảm, gọi là Mậu Thổ (dương).
Thần Khí hiệp Ly Khảm giao, tức lưỡng Thổ hiệp thành Khuê,
gọi là Đao Khuê.
Khảm điển: là tượng lửa phát dấy lên từ trong
nước là tỷ dụ Đạo tâm, Chân tri phát hiện từ trong ám muội. Chổ phát hiện
chính là Hượt Tư thời trong thân ta.
Phanh oanh: là hiện tượng hoảng hốt, bất
định.
Kim Thủy phương: là Đạo tâm, là Chân tri, là
Chân t́nh của Tinh nhất đều có đủ hai khí là Kim khí và Thủy khí.
Côn Lôn: là tổ mạch của muôn núi Tây phương,
là nơi phát Chân kim.
Cũng là nơi Đạo tâm xuất phát từ nơi u huyền tợ luồng điển
quang phóng ra thoạt minh thoạt ám, hoảng hốt bất định, rất khó được, lại rất
dễ mất. Nên gấp dùng cái hỏa trong cung Ly để nghinh đón th́ Chân trí và Linh
tri tương luyến, âm dương sẽ ḥa hiệp, trong đó sẽ phát xuất Tiên Thiên linh
dược.
Lại phải vận Châu Thiên, Chân Hỏa huân hóa Hậu Thiên trược
Khí cho đến lúc thuần Kim, th́ đơn dược được thuần thục rồi thoát thai hoán
cốt, hiện xuất thành tịnh pháp thân.
C̣n Ly Khảm nếu không có Mậu Kỷ tuy có hiệp với Tứ Tượng
cũng chưa thành đơn, mà nhờ có chân Thổ mới khiến Kim đơn phản huờn.
Khảm Thủy nơi con người là Nguyên Tinh, lúc phát động th́
hóa xuất thành "Trí".
Trong Thủy có tàng chứa Kim, nơi người là Chân T́nh, lúc
phát động th́ hóa thành "Nghĩa".
Ly là Hỏa, nơi người là Nguyên Thần, lúc phát động th́ hóa
thành "Lễ".
Hỏa sanh nơi Mộc, ở người là Nguyên Tánh, lúc phát động th́
hóa thành đức "Nhân".
Đạo Tâm có tượng ở Khảm; Nhơn Tâm có tượng ở Ly.
Đạo Tâm, Nhơn Tâm gồm đủ bốn Tánh: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa.
Nhưng v́ bốn Tánh đều khác, nếu muốn có một Khí tương sanh, toàn nhờ công phu
của Mậu Kỷ.
Mậu thuộc Dương Thổ là nguyên khí, lúc phát động th́ hóa
thành đức "Tín".
Kỷ thuộc Âm Thổ là ư niệm, lúc phát động th́ biến xuất ra
Dục.
Khảm nạp Mậu tại Đạo Tâm làm đức Tín.
Ly nạp Kỷ tại Nhơn Tâm làm Ư dục.
Nên muốn chánh cái Tâm, trước phải tu cái Ư cho thành thật.
Ư được thành th́ Kỷ Thổ định và Nhơn Tâm tịnh.
Muốn thực hành Chánh Đạo, trước phải tu lập đức Tín. Tín
lập th́ Mậu Thổ hiện và Đạo Tâm được sáng tỏ.
Nếu Đạo Tâm không có đức Tín, Nhơn Tâm chẳng được thành
thật, tuy có Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí đều không chiếu cố nhau mà chỉ ẩn tàng trong
T́nh. Tinh thần cũng phản bội nhau. Như vậy làm sao kết được thành Linh đơn?
Cho nên công phu tu luyện, Thành ư là yếu tố
quan trọng trước tiên, nên mới tượng là Đao Khuê.
Hạp tịch là cơ tiêu tức của hai khí Tiên Thiên và Hậu
Thiên, là nguyên cơ hô hấp trong ngoài.
- Hạp là hấp cơ, là hít vô, là đóng.
- Tịch là hô cơ, là thở ra, là mở.
- Khi Hậu Thiên khí hấp th́ Tiên Thiên khí thăng, là thăng
lên Càn làm Thể thủ.
- Khi Hậu Thiên khí hô th́ Tiên Thiên khí giáng, là giáng xuống Khôn làm Phanh
luyện.
Tức là Khí mặt ngoài đi xuống th́ Khí mặt trong qua ta mà
đi lên; c̣n Khí mặt ngoài đi lên th́ Khí mặt trong qua ta mà đi xuống. Ấy là
bí cơ thăng, giáng của hai Khí. Đạt được cái lư này th́ pháp Châu Thiên mới
diệu dụng.
- Một hấp hít vô từ dưới lên trên là tấn dương.
- Một hô thở ra từ trên xuống dưới là thối âm.
Tấn dương, thối âm, mộc dục, quy căn, đều mượn cái Khí hô
hấp Hậu Thiên để làm pháp Châu vận độ số. Nếu không dùng hô hấp th́
chẳng thành âm phù, dương hỏa, mộc dục, quy căn ǵ cả.
Nói hỏa là nói Thần, nói Chân Ư chớ không phải nói loại lửa
của thế gian.
Sở dĩ nói Văn hỏa, Vơ hỏa là nói Chân Ư phối hợp cới Chân
Tức, ứng dụng tùy theo thứ lớp công phu.
Tuy không phải là loại lửa bên ngoài thế gian nhưng cũng có
nhiệt năng, nếu cao độ có thể đốt tan Chân Khí, đốt cháy nồi không và có khi
gây ra chứng tẩu hỏa nhập ma. Cũng có số Tu sĩ dụng hỏa lực cao độ,
Châu Thiên quá số nên phải bị mạng vong. Nên Văn hỏa, Vơ hỏa là Thiên Cơ bí
mật.
Văn hỏa: là vi vi chi tức, là nhu, là huởn,
là thư thái. Chân Ư không chấp trước vào hơi thở. Nhẹ nhàng, tĩnh tĩnh, dằng
dặc không dứt. Tâm hư không, thân bất động, ư bất sanh. Có thở mà như không
thở, không thở mà như có thở. Hiệp với tự nhiên, nương theo cơ vận hành tức
tức quy căn.
Vơ hỏa: là hơi thở có phần tŕ trọng, có phần mạnh
hơn, cấp hơn.
Văn hỏa, Vơ hỏa có khi đơn dụng, có khi kiêm dụng, như:
Thể dược th́ trước văn, sau vơ; Vận châu thiên th́ nữa văn,
nữa vơ; Luyện nấu thuốc trước vơ, sau văn.
C̣n các công phu: Đại châu thiên, Ôn dưỡng, Mộc dục, Phong
cố, Tịch chiếu hoàn toàn dùng Văn hỏa.
Hỏa là tiếng gọi chung, thật ra có nhiều thứ:
- Hỏa hô hấp (khỉ hỏa dẫn hỏa): Dùng hóa Cốc Tinh, đồ
ẩm thực để trợ Nguơn Tinh.
- Thần hỏa (ngưng hỏa, nhập hỏa, ly hỏa, tâm hỏa, lư trung hỏa...): để
hóa hô hấp trợ Ngươn Thần.
- Hỏa nguyên thần: là hỏa Tiên Thiên Khí để hóa h́nh Huờn Hư Trợ Đạo.
Vậy chư Tu sĩ cần lưu ư phân biệt rơ ràng.
THI
Bên trong chủ tể một Thiên Can,
Hai Khí luân hành tiến thối đoan.
Thượng đáo Côn Lôn huờn tử phủ,
Khai thông Thiên Địa chuyển Thần Quang.
HỰU
Quang nhiên diệu hiệp Đao Khuê dung,
Tánh Mạng giao thời chuyển phúc trung.
Chỉ hữu t́nh lai Chân Chủng sản,
Thể, Huân, Phong, Vận, pháp minh tùng.
ĐẠO LỘ
Đạo lộ là đường âm dương thăng giáng, là Nhâm mạch, Đốc
mạch.
- Nhâm mạch là mạch quản nhậm các mạch âm.
- Đốc mạch là mạch quản nhậm các mạch dương.
Hai mạch này rất quan hệ đến cơ sanh tử của con người.
Cơ thể của người mạch Nhâm ở phía trước bụng, khởi hành từ
huyệt Hội Âm đến huyệt Thừa Tương.
Đốc mạch ở phía sau lưng, khởi hành từ huyệt Thừa Tương,
lên Thiên Môn rồi xuống Trường Cường.
Hai mạch này có hai chổ đứt đoạn. Một ở miệng, một ở Cốc
Đạo, cho nên sự sanh hóa mất căn bản. Công phu Thiền Định chủ trương nghịch
chuyển hà xa: tấn Dương hỏa là chiết Khảm; thối Âm phù là điền Ly để trở
thành Càn Khôn như thuở Thiên Tiên.
- Đốc mạch có Tam Quan: là Vĩ Lự, Giáp Tích và Ngọc Chẩm.
Mỗi quan ải có ba Khiếu nên gọi là Cửu Khiếu hay "cửu khúc minh châu".
- Nhâm mạch có Tam Điền: là Hạ đơn điền, Trung đơn điền và Thượng đơn điền. Mỗi
điền có ba vị trí nên gọi là "cửu đănh huờn đơn".
Công phu vận Châu Thiên với mục đích:
- Khai thông hai mạch Nhâm, Đốc để chờ ngày "quá quan
phục thực".
- Công phu tấn dương thối âm để chiết Khảm điền Ly, để điều ḥa âm dương,
chuyển cơ sanh tử thành cơ bất sanh tử.
Cơ chuyển vận Pháp Luân có quy luật chung thủy theo cơ Hành
Trụ khỉ chỉ. Hành khỉ thuộc thủy, Trụ chỉ thuộc chung. Và Hành Trụ khỉ chỉ đều
tại Hư Nguy huyệt. Hư Nguy tại cung Khảm ngôi Tư. Chổ khởi đoan của cơ sanh
âm, sanh dương c̣n gọi là Hà Xa lộ.
Pháp Châu Thiên vận khí luôn luôn đề pḥng ở hai điểm gián
đoạn giữa hai mạch Nhâm, Đốc bằng cách dùng chót lưỡi chống lên chổ trũng hàm
trên để nối Nhâm, Đốc mạch, gọi là nối "thượng thước kiều" (bắc cầu trên) cho
Khí thông xuống Trùng lầu về Khôn cung.
Nhíu hậu môn chuyển Khí từ Khôn cung qua Vĩ Lư, gọi là nối
"hạ thước kiều" (bắc cầu dưới) cho Khí thông lên Càn đănh.
Khi Nhâm, Đốc mạch đă được khai thông th́ tất cả các kinh
mạch trong châu thân cũng đều thông.
THI
Pháp vận như thời Đạo Lộ minh,
Giáng thăng mộc dục đắc công tŕnh.
Vơ văn biến hóa chân huân luyện,
Bửu phẩm kim đơn túc mạng sinh.
HỰU
Sinh cơ hành chỉ tại Hư, Nguy,
Tấn thối âm dương tín hiệp th́.
Nhâm, Đốc truyền thông Lư đănh chuyển,
Càn, Khôn định vị lập căn ky (cơ).
Tôn sư ban ân chung.
Thăng...
|