BÀI:
Kìa Diêu-Ðiện cảnh trời
thanh bạch,
Nhìn thấy con mắc vách khổ
nguy,
Nhặt thưa ác luyện đưa thì,
Bợn
nhơ thế tục quản gì linh quang.
Vì con trẻ chứa chan dạ Mẹ,
Tuy là không sanh đẻ, dưỡng
nuôi,
Chớ tình Mẫu tử chi nguôi,
Sanh
hồn dạy dỗ ngậm ngùi với con.
Kể từ thuở trẻ còn nhỏ
nhặn,
Mẹ hằng lo cho đặng khôn
ngoan,
Ngày đêm dạy dỗ buộc ràng,
Quyết
cho con trẻ vẹn toàn thân sanh.
Lấy âm dương tạo thành hồn
trẻ,
Cậy anh linh chỉ vẽ đủ điều,
Tình thương con mẹ dấu yêu,
Ðêm
khuya giáng thế dắt-dìu con thương.
Hôm nay đàn tỏ tường THÁNH-ÐỨC,
Vì thấy con hiệp sức lo lường,
Thanh tâm Từ Mẫu giáo trường,
Ðể
lời chỉ bảo tận tường cùng con.
Ðường đạo-đức lo tròn hưởng
phước,
Tình chị em sau trước nương tình,
Nẽo đường khổ nạn đao binh,
Khác
chi cá chậu khó chinh ra vòng.
Ðời xem kỷ long đong lắm bấy,
Ðạo xét cùng càng thấy cao
thâm,
Máy linh con trẻ tay cầm,
Ðường
dài rán chí học tầm chớ xao.
Tuy là gái thấp cao có bực,
Phận liễu bồ nhược chất hồng
nhan,
Biết thân chớ nệ nhọc nhằn,
Rán
lo cho kịp Ðạo hoằng hóa khai.
Rủi sanh phận nữ hài khó nhọc,
Biết đâu là nương vóc cho yên,
Lấy tình để kết làm duyên,
Gởi
trăm năm phận cầu nguyền đặng vui.
May đặng phước khỏi ngùi ngùi
dạ,
Rủi phận con ngộ họa phải
cam,
Cánh bèo ra giữa nước vàm,
Tẻ
ra bốn ngã chia làm sao xong.
Nên lời tục: đục trong phải
chịu,
Có tiếng rằng: chí hiếu là
nên,
May duyên gặp hội Ðạo truyền,
Tình
em nghĩa chị chung thuyền qua sông.
Hoa man mác trôi dòng nước vận,
Biết đâu là an phận nữa giờ,
Biết đâu trăm tuổi khó chờ,
Hay
đành vắng bóng tình cờ đó con.
Ðường Ðạo biết rán bòn âm
chất,
Phước được nên nhớ thật
lòng lo,
Thiên ân phận lãnh vai trò,
Gắng
công báo đáp đặng cho đẹp mày.
Rồi Mẹ chuyển Minh-Ðài hiệp
mặt,
Cùng tam giang dìu dắt lẫn nhau,
Long-Vân Hội đã trổi màu,
Nữ
tài khuyên trẻ rán trau nên tài.
Dụng nữ trí sánh vai nam tử,
Lấy hồng nhan chuyên chú thiên
cơ,
Non sông cõi Việt định giờ,
Nữ
trung con trẻ cũng nhờ phước duyên.
Thấy thế sự đảo huyền mà
chạnh,
Xem cơ đời tranh cạnh mà đau,
Bớ con phận gái thấp cao,
Nữa
thân bèo dạt một màu hoa trôi.
Sớm muộn phải sóng dồi dập
liễu,
Chiều mơi rồi có hiểu mất còn,
Ngọn đèn trước gió thon von,
Tỏ
lờ còn mất, mất còn biết đâu.
Nỗi cuộc thế tang dâu biến đổi,
Cuộc nạn tai nhiều lối khổ sầu,
Thấy con Mẹ rất lo âu,
Thương
con nên phải giáng cơ dạy bày.
Cung Diêu-Ðiện đêm ngày
trông đợi,
Ðợi các con gắng gợi lòng
tu,
Tu sao vận tải long-phù,
Nữ
trung oanh liệt ngàn thu còn truyền.
Bớ các con nghe khuyên để dạ,
Rán lập công bồi quả cho rồi,
Ngày sau đặng trở về ngôi,
Mẹ
con sum hiệp đứng ngồi xuê xang.
Nơi địa phủ có đàng đừng
xuống,
Thấy công danh chớ chuộng mà
nguy,
Ma vương nó cứ lôi trì,
Làm
cho con mẹ chăng gì gặp nhau.
Bớ nữ phái lo trau bổn phận,
Nầy con ôi chớ bận lòng vàng,
Canh khuya lần bước đến đàn,
Tiếng
gà gáy rộ nhộn nhàng ngoài hiên.
Lời châu ngọc đem truyền cứu
thế,
Tiếng quí mầu phổ tế vạn dân,
Cả kêu con trẻ biết thân,
Sống
còn phận gái muôn phần ra chi.
Ðời người phải lỗi nghì với
Ðạo,
Nhơn tình xuôi khổ não cùng
thân,
Ðã cho là kiếp phong trần,
Cho
thanh cao mới được phần thanh cao.
Thân đã định, định vào gánh
nợ,
Nợ xưa nay, vay sợ lâm nguy,
Hễ là có trí xét suy,
Lấy
đào hoa đổi kịp thì khổ thân.
Sanh vào cuộc phù vân khổ nạn,
Ðứng trong vòng muôn vạn tai
ương,
Thì sao lánh khổ đoạn trường,
Ðã
thưa thớt liễu lại nhường thuyền quyên.
Ðời nhiều lúc đeo phiền cho
trí,
Cơn rảnh rang suy nghĩ thêm buồn,
Nỗi con phận mỏng cánh chuồn,
Ra
vui chưa phỉ, vào buồn tủi thân.
Nhìn trăng gợi muôn phần đau
dạ,
Nghe quyên than buồn bã nhớ
ai,
Dường như nhớ kiếp đọa đày,
Nhớ
nơi kỳ ngộ, nhớ ngày Thiên cung.
Gió đưa lá thẳng dùn ngoài
ngỏ,
Gầm ghì trời tiếng vọ bên
tai,
Ngậm ngùi nữa tỉnh nữa say,
Tưởng
cho thân đã lạc loài về đâu.
Xét cuộc thế dãi dầu cay đắng,
Nghĩ của tiền cũng chẳng ra
chi,
Nếu thân gặp phải cơn nguy,
Như
mây đương nổi gió thì rả tan.
Hồi tưởng lại Ðạo vàng vui
thú,
Rán tu hành ký chú mọi mùi,
Thoát vòng lao khổ mới vui,
Tu
sao cho đặng tới lui Tiên đàng.
Quyển THÁNH-ÐỨC rõ ràng
máy nhiệm,
Bớ các con rán kiếm lý mầu,
Ðừng lòng van vái khẩn cầu,
Mà
tâm hung ác tạo sầu kiếp tu.
Mẹ biết đặng lòng nhu của
trẻ,
Mẹ biết con quyết hé Thiên cơ,
Nhưng chưa đành dứt trái duyên,
Còn
đeo đai nặng nỗi phiền nơi thân.
Không có chí vững vàng Ðạo
cả,
Cứ đỏng đưa theo gã công
danh,
Ngồi trong cảnh Ðạo tu hành,
Mà
lòng toan tính cạnh tranh đủ điều.
Ðạo muốn cao, đời muốn yên,
Hai
tay bắt cá biết xiêu bên nào.
Vì vậy nên nữ hào mất hết,
Bởi tại con chưa biết chánh
đàng,
Bớ con lận đận trần gian,
Lóng
nghe cho kỷ lời than Mẫu từ.
Người thiệt tu tâm như đinh
sắt,
Chẳng bao giờ chịu mặt yếu
thua,
Ngày đêm suy nghĩ thẹn thùa,
Cũng
là nữ kiệt lỡ mùa hay sao.
Khuyên các con giồi trau tâm tánh,
Khá tu hành so sánh mà chi,
Khoa tràng rán đến kỳ thi,
Tranh
tài đạo hạnh phân bì mới nên.
Các nữ sĩ rán bền tâm chí,
Phải trau tria rõ lý cho thuần,
Minh tâm kiến tánh cao siêu,
Thánh-Kinh
đức trọng noi chừng đường Tiên.
Khá giữ lấy lòng thiền tu
niệm,
Rán gìn tâm đặng tiến cao siêu,
Mới mong giải thoát khổ nhiều,
Vâng
lời Tiên Thánh được nêu tên đề.
Chí liệt sĩ đề huề nương cậy,
Dẫn dìu nhau học lấy Ðạo vàng,
Tinh thần nung nấu cho an,
Chí
thành cảm hứng khoa tràng mới nên.
Khuyên thế tỉnh rán lên thượng
đảnh,
Ðặng Mẫu Nghi cám cảnh cho
đời,
Vì chưng liên lụy trần vơi,
Phận
quần thoa khỏi lụy đời độ thân.
Bởi nhi nữ hồng trần yếu đuối,
Lòng vô minh lầm lủi đã đành,
Kệ Kinh khuya sớm học hành,
Thượng
thừa vững đạt thiện lành trau tâm.
Biết tu niệm thuốc thần ban rải,
Giọt cam lồ cứu giải trầm
kha,
Tìm phương hiểu lý sâu xa,
Diệu
huyền đạo-đức luận ra cội nguồn.
Chớ đừng dạ luông-tuồng hơ
hỏng,
Vì thân còn mành mỏng yếu hèn,
Cũng đừng tranh lấn trắng đen,
Lòng
cho trong sạch như đèn trời thu.
Khá hôm sớm ôn nhu kinh sám,
Hoài bảo nhau cho đám em khờ,
Cúc côi phận yếu liễu bồ,
Rán
tu một kiếp điểm tô Ðạo lành.
Luật Trời định cứu sanh linh
thoát,
Muốn cho an phát đạt tinh thần,
Khuyên con biết trọng nghĩa nhơn,
Giữ
lòng sĩ liệt biết cần cần tu.
Xem ngôi báu trăng thu ánh giọi,
Trong các con theo giỏi mau lên,
Cảnh Tiên đợi kẻ tâm bền,
Tu
hành đúng mực đem lên ngôi vàng.
Con rán chí vững an học lấy,
Gìn tâm thiền phải quấy biện
rành,
Lựa điều lánh đục tầm
thanh,
Cho
tường manh mối đành rành mới hay.
Vậy mới gọi nữ tài liệt ái,
Lòng hiền lương vận tải lương
từ,
Công bình một dạ chơn như,
Ðêm
ngày huấn luyện từ từ mới cao.
Gió thu cảnh lao rao tạt đến,
Kìa đò Tiên kề bến đợi
ai,
Ớ con hạnh đức trí tài,
Rán
mà làm bạn chương đoài thanh cao.
Thân mỏng mành khá trau thấu
đáo,
Triết lý sâu hoài bảo chị
em,
Kìa gương DIỆU-THIỆN khá
xem,
Tên
còn rành rạnh như rèm trăng thanh.
Rán gở mối tơ mành hết rối,
Ðường Ðạo Trời chớ thối
từ nan,
Nâu sòng nhượm lấy màu vàng,
Thanh
tâm tuyệt vọng huy hoàng sáng trưng.
Kinh THÁNH-ÐỨC con bừng
mắt dậy,
Rán học hành sửa lấy tinh
ba,
Một lòng thoát khỏi ái hà,
Hồng
ân đượm tưới cỏ hoa tươi nhuần.
Bớ con ôi khá vưng lời Mẹ,
Noi Thánh-Kinh chỉ vẽ đường
tu,
Giáng đàn thừa lúc trung thu,
Quyết
tình chỉ lối vẹt mù cho con.
Kìa võ-trụ nước non còn đó,
Tình Mẹ con cho rõ thâm tình,
Khuyên con lớn nhỏ giữ gìn,
Giả
con ở lại Thiên-Ðình Mẹ lui.....