Trở lại trang chánh của Website Thiên Lý Bửu Tòa

 

10.- CHƠN TRUYỀN ÐẠO GIÁO

__________

THI:

DI truyền chơn-giáo buổi tang thương,

LẠC đạo nhàn tâm kẻ biết đường,

TUYÊN bố mối giềng cùng chúng khổ,

QUANG minh chơn lý với tai ương,

PHẬT đà pháp nhiệm chưa ai rõ,

Giáng thế huyền vi mấy kẻ tường,

Ngọc điệp lưu ly trau quí giá,

Ðàn Tiên học tập lánh trần dương.

      Mừng chư hiền sĩ.

THI:

Lộ máy huyền vi xuống cõi đời,

Chúng sanh mới rõ pháp truyền lời,

Học thông lý Ðạo gìn tâm thiện,

Phật Pháp cổ kim chẳng đổi dời.

      Chư chúng sanh nghe:

      Từ xưa đến nay trải bao cuộc tang thương biến đổi, cồn dâu hóa bể, thương hải tang điền. Mối Ðạo hoằng khai chuyển cơn hồ điệp, vì chúng sanh gần nơi thế tục, mê kiếp đọa đày làm điều tội lỗi, khiến nên mối Ðạo phải tùy thời mà truyền bá, đặng sửa trị lòng người cho trở nên Thánh-Ðức, thì những qui tắc luật điều Tôn-giáo cũng đồng nhau, dầu muôn Kinh ngàn điển thì cũng bài cửa dữ, dạy nơi lành, làm chủ lấy lương tâm cho đặng rồi mới có thể mà tiến lên mấy bước cao siêu. Ðó là cái chơn truyền cổ kim hằng hữu. Nhưng than ôi! Cuối hạ nguơn nhơn loại đổi dời, tâm người giả dối, khiến nên các chơn truyền trụy lạc, mối Ðạo cả phiêu lưu, kẻ thế gian cậy thế quên mình, người đạo đức giả tu cầu tiếng!

      Bởi vậy mà máy huyền vi chẳng có, cơ tấn hóa vốn không, sự yếu trọng hơn hết là cõi lòng, mà con người còn lầm lạc, sân, si, hỉ, nộ, huống chi là việc lớn lao như siêu phàm nhập Thánh, có thế chi mà con người đặng đến cõi từ bi!

      Ðời bây giờ người tu một cách khác hẳn với đời Thượng-Cổ. Tu mà văn minh quá thì cái đời tu ấy chẳng thành chi. Người đời tu là cầu làm sao cho cao chức lớn quyền, bắt đàn em đở khiêng đưa rước, mà người đời hàm hở đặng bước đến con đường nguy cấp trầm luân, mà người đời lại tự xưng là cao Ðạo.

      Than ôi! nếu từ xưa đến nay, cái chỗ huyền thâm Ðạo pháp tu như vậy mà được thành, thì thế gian nào còn kẻ tục, ngôi Tiên Phật ắt là sập đi rồi. Vì người tu chẳng có quyền, có tước, có thế lực, dầu tu hay không, miễn có một phần đông thì xưng đặng. Coi người phàm có quyền hơn Tiên Phật, cậy thế lực của Tôn-giáo mà ép bức Tôn-giáo, mà thế gian lại lắm vọng cầu. Thế nên ta cho cái thời kỳ nầy trừ ra kẻ chí tâm hành thiện, người xả thân giúp đời, thì còn bao nhiêu là lập phe kết đảng để bóc lột sự vinh sang, mà tự xưng là đạo đức.

      Những kẻ bước chơn vào cửa Ðạo đem mình quì trước Thiên-nhan, miệng vái cầu đủ tiếng tu hành mà tâm tham lợi, mến danh không dời đổi, ấy là những kẻ sát nhơn đoạt tài, mà khi bị tra khảo nó đều chối tội. Thế gian cũng vậy khác nào.

      Nay muốn đem cái máy siêu việt ra mà bày bố cho nhơn sanh thì khó nỗi chỉ rõ dạy rành vì sợ người đời giả tu cướp lấy.

      Kìa như đời NGŨ-TỔ truyền Ðạo cho LỤC-TỔ HUỆ-NĂNG còn phải lén mà trao, nhưng rồi cũng không khỏi bị Thần-Tú rượt theo cướp đoạt.

      Than ôi! Ðời giả dối sao sự tu hành cũng giả dối, thì làm sao mà thoát khỏi bể trầm luân?

      Ta muốn tóm tắc một điều, truyền cho người đời học lấy mà tu hành. Chừng thuần quen tâm tánh rồi thì ta sẽ đem cái chánh giáo ấy mà truyền cho.

      Nhưng dầu ta có dạy ra đây thì còn một phần người cho là thấp thỏi, là bực hạ thừa, chớ người đời đã biết cao hơn.

      Nhưng trái lại, dầu Ðức NHIÊN-ÐĂNG, dầu Ðức PHẬT-TỔ cũng phải học, phải noi theo đấy mà thành ngôi định vị.

      Các Tôn-giáo đều lấy cái qui tắc mà gọi là thập điều, tam-qui, ngũ-giới, tam-bửu, ngũ-hành, tam cang, ngũ-thường. Còn trong Phật đà, tăng chúng lại lắm luật pháp bí truyền, đôi ba trăm điều, năm bảy thứ răn, mà kỳ trung thì cũng còn sa đà theo thế tục.

      Tại sao vậy?

      Bởi người trong thế kỷ 20 nầy, các Tôn-giáo đều mạt pháp cả rồi, những kẻ lòng mộ đạo đức, mến tu hành quyết truyền bá cho chúng sanh, phải hội Tăng Già mà khai Kinh giảng Ðạo.

      Than ôi! Sách một nơi, tìm lý một nơi thì tài nào mà trúng chơn truyền cho đặng!

BÀI:

      Xem cuộc thế đổi dời chan chứa,

      Xét lòng người lụy ứa cho đời,

            Mối chơn truyền đã đổi dời,

Làm cho khổ nạn chẳng rời kiếp sanh.

            Thiết tha cho kẻ tu hành,

Không lo thiện hạnh lại tranh thế quyền.

                  Sái chơn truyền,

                  Khổ trần duyên,

                  Phải đắm thuyền.

            Thuyền ngoài sông Vị đua bơi,

Sóng dồi gió dập không nơi dựa cùng.

      Mãn kiếp vẫn trong lòng khổ hại,

      Linh đinh đời giữa cái ngục sâu,

            Mê man nào kể trên đầu,

Miễn cho phỉ chí van cầu lợi danh.

                  Ngán đua tranh,

                  Mảng giựt giành,

                  Sự cao xanh.

            Cao xanh có thấu lòng người,

Mê sa tục lụy mến mùi trần ai.

      Nhìn Ðại-Ðạo Cao-Ðài thảm trách,

      Mấy năm trường Kinh sách biết bao,

            Lời truyền Thánh-Giáo không trau,

Nực cười ấy cũng phong trào đổi thay.

                  Mới chia hai,

                  Kẻ có tài,

                  Mảng mê say.

            Say sưa lỗi đạo lỗi tình,

Canh trường nghĩ đến phận mình mà đau.

      Phải trước biết gìn trau chánh pháp,

      Thì sau đâu có đạp đến điều,

            Vì lòng tự đắc tự kiêu,

Ðạo Trời mà muốn ấp yêu một mình.

                  Giả dạng hình,

                  Kiếm thế mình,

                  Ðặng đời tin.

      Tin các giáo hạ-nguơn chấn chỉnh,

      Xem chơn truyền khó định vào đâu.

            Vì xưa nay đã khác màu,

Muốn ra ai cấm, muốn vào ai ngăn.

      Ðường giáo lý như trăng đã khuyết,

      Nẽo Phật ngôn khó biện cho rành,

            Cuộc đời lộn với lợi danh,

Xa đàng đạo đức tu hành chẳng nên.

                  Ðạo chưa yên,

                  Ðời chẳng duyên,

                  Ván đóng thuyền,

                  Khó như nguyên.

            Nguyện y lời Thánh chơn truyền,

Giáo khai pháp diệu đặng thiên Ðạo mầu.

THI:

Ðạo mầu biết đặng rán gìn tâm,

Triết lý cao thâm chí tận tầm,

Mối chánh lánh thân giây khổ hải,

Thành duyên kết quả đến huyền thâm.

* * *

      Than ôi! đời người cũng tỷ như đường giây vương vấn những sự não sầu, muốn tìm ra con đường giải thoát thì phải rèn tập ba cái giả thể là:

THÂN, TÁNH, TÂM

cho trong sạch. Phải biết cái chỗ yếu lý của ba thể ấy mà ngừa, mà giữ. Mỗi khi gặp phải cảnh ngộ buộc trói vào thì mau mau tìm phương thế mà giải ra mới đặng.

      THÂN: thì nó ham muốn sự thanh nhàn, ham ăn, ham mặc, dụ dự, biếng nhác, ham ngủ, ham chơi.

      Nếu người tu không biết giữ, để cho nó tha hồ thì nó tự tạo lấy giây oan nghiệt mãi mãi trong đời.

      TÁNH: nó lại ham dục vọng, cầu danh, mến lợi, chí sa mê trong vòng vật chất trần gian. Thêm những sự giận hờn, thương ghét, thất tình, lục dục, ham muốn của đời, là cũng bởi TÁNH tạo thành. Một phen con người thức tỉnh mà tu hành, thì nó lại xúi giục những sự tội tình. Nó không bằng lòng với những điều ép buộc nó. Bởi TÁNH mà khiến cho con người phải trăm cay ngàn đắng. Người tu hành phải tìm cái kế chi mà giải phá nó đặng thì giải. Có kẻ làm xúc động đến nó thì nó không chịu mà cằn nhằn giận duổi, khiến cho người tìm kế trả thù, nó mới nghe cho. Thế thì TÁNH là một con trâu rừng, nếu không kèm nó, thả nó ra thì nó chém phá tàn hại chúng sanh biết bao nhiêu điều kể chi xiết.

      TÂM: Từ xưa đến nay, biết muôn ngàn Kinh sách giải không nổi chữ TÂM. Khi nó tịnh, hồi nó động, khó phân rành ý tưởng của TÂM. Lên Thiên-Ðàng, xuống Ðịa-Ngục cũng do nơi TÂM tạo khởi. Nhứt là nó có cái ích kỷ riêng cho nó mà thôi. Lại tự kiêu, tự đắc, biết có mình mà chẳng biết đến ai, thậm chí nếu người mà chẳng kềm thúc nó thì nó tạo ra biết bao nhiêu điều oan trái.

      TÂM thường toan mưu tính kế tàn hại người đời, khoe danh cầu tiếng, chỉ biết ích lợi riêng cho nó. Bởi thế một phen con người biết tự chủ nơi TÂM thì vạn sự trần gian đều tiêu hủy và bất đồng cả, ấy là người đạt đến chỗ Chơn Tâm. Người tu hành cần phải sửa lòng mà thắng phục được ba thể ấy, làm cho nó biết tùng theo mạng lịnh của mình, thì tuy là ở trần gian mà TÂM lên đến cõi Niết-Bàn kia vậy.

      Con người giữ vững ba thể ấy rồi thì xem cõi trần gian như là mộng tưởng, nhìn vạn loại rất đau đớn với luật luân-hồi, thấy cuộc thế như bèo trôi nước chảy, xét đến nhơn tình thế thái cũng tỷ như giọt sương gieo trên chòm thung, cụm liễu, gặp phải gió vụt nắng tan, coi vạn loại như anh em, đồng ở trong khuôn khổ của đời, mà năng tầm phương giác ngộ.

      Chừng ấy con người mới có sự thương yêu đại đồng, chẳng còn phân màu da nước tóc, không cao không thấp, chẳng nở làm những điều đau đớn cho nhau, chỉ tìm phương để giải cứu cho nhau đặng ra ngoài vòng trần lao khổ lụy. Lại phải còn dè dặt chừng lòng ích kỷ, nó thừa dịp ấy mà đem con người vào chỗ tối tăm. Không bao giờ tánh tục tâm phàm mà nó muốn giải thoát ra ngoài vòng khổ lụy, vì những trược khí trần gian phù hạp với nó. Nên người tu chẳng nên tin lấy mình mà phải kềm thúc lấy mình.

      Ba cái giả thể ấy, con người thắng phục nó đặng rồi thì còn sự giao cảm với đời làm điều trái trở, nhưng lòng trí tri chẳng đổi, TÂM quyết định không lay thì con người dầu gặp cảnh ngộ đắng cay thì cũng đều yên tâm mà tiến lên con đường sáng suốt. Một lúc gặp người chê cười hiếp đáp mà lòng vẫn thanh tịnh không giận người, tại sao có tâm thế ấy? Lại thương người vì vô minh mà chẳng đặng thoát khỏi kiếp đọa đày. Mỗi chuyện chi đều suy nghĩ trước khi làm, trước khi nói phải ngăn ngừa ba giả thể đừng lầm phàm tâm với chơn tâm. Một chuyện như thế, ngàn chuyện cũng như thế, thì dầu con người còn ở nơi cõi tạm trần gian, chớ lòng đã cao siêu thoát hóa.

      Cái kiếp tu là trái lại với cuộc đời hiện tại mà nó tấn hóa với cuộc đời tương lai. Vì bị màn vô minh che lấp, cho nên người đời mảng mê say theo cái tánh tục tâm phàm, không tự trị được lấy mình, mà bảo thành Tiên tác Phật làm sao cho đặng?

      Vậy người tu phải cần sửa trau ba thể ấy cả đêm ngày nhớ đừng quên, thì giác quan mới mở, thần-nhãn, thần-nhỉ mới thông mà thấy đặng sự người đời không thấy, nghe đặng sự kẻ tục không nghe. Chừng ấy mới gọi rằng biết một điều nhỏ mọn trên con đường Ðạo muôn trùng vậy.

THI:

Nương bút tạm phân máy diệu huyền,

Ðể lời nhắn nhủ khách trần duyên,

Thời kỳ mạt kiếp hầu bày dạng,

Hối thúc anh em bước xuống thuyền.

BÀI:

            Thuyền từ rước khách kỳ ba,

Hữu duyên lánh chốn ái hà khổ tâm.

                  Mới cao thâm,

                  Cuộc luân trầm,

                  Biết mấy năm.

      Mấy năm mới biết Ðạo mầu khai,

      Ðức cả thành công mới rạng mày,

      Hiếu nghĩa để lòng lo vẹn giữ,

      Công bình cơ Ðạo chẳng hề sai.

      Say cuộc thế nên người đời mảng mưu mưu với kế kế.

      Biết thân phàm thì khuyên chớ làm cho bê trể bước đường Tiên.

      Ðạo muốn cao cũng như đi gió ngược mà lướt thuyền.

      Lòng rán giữ chớ nên để cho sự đảo điên trong tâm trí.

      Người cõi tục tận tường chung thỉ,

      Rán lo lường chí lý cao thâm,

            Ðường xa vắng tích biệt tăm,

Ngổn ngang khổ hạnh khôn cầm lòng thương.

                  Nỗi đoạn trường,

                  Phải vấn vương,

                  Sự khó tường.

      Khó tường lý Ðạo bởi đời mê,

      Sanh tử biết bao tập khổ đề,

      Cảm đức Thánh-Hoàng đem tưới nhuận,

      Ngày đêm kỉnh tụng chẳng nên mê.

      Mê cuộc chiến khiến nên nhơn quần đều rời rã.

      Tham lợi danh rồi đành xảo trá với nhơn tình.

      Biết đâu mà kể những nỗi đao binh.

      Thân cô lậu càng nhìn càng thêm tủi.

      Mãn kiếp những trò đời cặm cụi,

      Cùng năm lo qua buổi với đời,

      Có biết chi may rủi vận thời,

      Không hiểu đặng yên nơi mà nương dựa.

      Giữa cuộc thế lòng thương chan chứa,

      Biết bao nhiêu cành úa lá vàng,

            Làm sao lánh khỏi bùn than,

Bước lên Tiên cảnh, Niết-Bàn mới vui.

                  Biết Ðạo mùi,

                  Rõ đặng người,

                  Sự sụt sùi.

      Sụt sùi lánh thì thanh nhàn không xiết nghĩ.

      Mến trò đời là nơi lao lụy có chi nhàn.

      Kìa Bồng-Lai lửng đửng mấy cụm mây vàng.

      Nọ Thiên-Tạo biết muôn ngàn là cảnh vật.

      Người thoát tục lánh vòng vật chất.

      Chẳng còn điều đặng thất nên hư.

      Của trần dầu để có dư.

      Cũng là giả tạm biết từ hay hơn.

      Hay hơn nhờ đức học Tiên truyền,

      Ðắc quả thành công mới phỉ nguyền,

      Một kiếp khổ tu muôn kiếp hưởng,

      Ba đời chịu nhọc mới thành duyên.

      Duyên cùng quả tận tâm mới biết,

      Nợ cùng căn chí quyết mới thành,

            Mặc ai danh lợi giựt giành,

Giựt giành rốt cuộc tan tành còn đâu.

                  Cuộc bể dâu,

                  Nỗi nạn sầu,

                  Ðã bấy lâu.

            Bấy lâu theo Ðạo tu hành,

Nhờ lòng chí hiếu tập tành mới nên.

            Dầu xa cũng rán tâm bền,

Chí công đắc quả vun nền Ðạo cao.

      Ðạo cao rán một màu tấn thủ,

      Mối chơn truyền đã có đủ huyền linh.

      Bớ chúng sanh mau mau tỉnh giấc mộng huỳnh.

      Mở mắt tục mà kỷ nhìn cho rõ ràng con đường Ðạo.

      Người trần thế thường gọi cảnh Tiên là khôn cơ tạo.

      Kẻ thường nhơn thường than rằng những sự hiếu thảo khó làm.

            Tại người không dứt muốn ham,

Nên sanh khổ não phải cam đọa đày.

                  Biết rủi may,

                  Khó trở day,

                  Với tháng ngày.

            Ngày trời mơi sớm thong dong,

Tu an nghiệp quả phủi lòng trần ai.

      Trần ai mê mệt chẳng làm chi,

      Mãn kiếp rồi càng sự lắm nguy,

      Thiên Ðạo rán tu về cựu vị,

      Muôn loài ma chướng tránh đàng đi.

BÀI:

      Ðường danh lợi chi gay cho lắm,

      Ðám mây tàn chớ đắm hoài chi,

            Làm cho linh tánh tinh vi,

Mất linh quang khiếu dễ gì tính toan.

      Lòng ám muội khó làm âm chất,

      Lòng mưu mô ắt thất chơn truyền,

            Hồi đầu lai phục bổn nguyên,

Thiên cơ dĩ lộ đạo huyền chơn tâm.

      Lòng sanh chúng cơ cầm áo não,

      Ý tóm thâu tàn bạo quen nghề,

            Vì chưng mê muội trần quê,

Lạc đường bít ngõ khó về ngôi xưa.

      Làm nô lệ cho vừa ba thể,

      Cứ chìu lòn chẳng kể chi chi,

            Linh quang dày bịt thấy gì,

Chơn tâm đâu rõ đường đi chánh tà.

      Lòng phân biệt Phật ma đâu hản,

      Bởi vì đâu gieo cảm lẫy lừng,

            Làm cho khổ hại xác thân,

Làm cho tiều tụy tâm thần chơn linh.

      Vậy phải biết tùy hình tùy ảnh,

      Chớ ỷ quyền tranh cạnh đua chen,

            Dọc ngang đè ép kẻ hèn,

Chẳng thông cơ Tạo đòi phen khổ sầu.

      Phải biết rõ lý sâu huyền bí,

      Phải lãm thông yếu lý cho tường,

            Tự mình nung nấu làm gương,

Phải trang hướng đạo dẫn đường chúng sanh.

      Vì linh tánh không rành chơn giả,

      Làm vướng quyền thể giả của ta,

            Tưởng rằng là của Tiên gia,

Dè đâu ấy của quỉ ma xen vào.

      Lòng chi xiết tâm bào ruột thắt,

      Lòng thảm thương dẫn dắt kẻ mê,

            Vẹt mây sáng tỏ bốn bề,

Ấy là Kinh-Thánh chuyển mê hội nầy.

      Khá tâm trọng lời Thầy để dạ,

      Luật Hóa-Công chơn giả biện rành,

            Tự mình giám đốc lấy mình,

Tự mình làm chủ sắc đinh một màu.

      Vì thể giả lao xao tâm tánh,

      Làm cho mình khó lánh trần mê,

            Khó toan phá vách não nề,

Vậy mau thức giấc quày về nẽo Tiên.

      Ấy thể tạm chủ quyền tự nó,

      Cứ lủi lầm vào rọ tứ tường,

            Gạt người mắc phải trần dương,

Gạt người phải chịu tang thương não nồng.

      Hằng ngày phải đề phòng cho lắm,

      Chớ đừng quên để thấm vào tâm,

            Làm cho vùi lấp linh căn,

Của Trời ban phú khó phân bí truyền.

      Muốn làm chủ cầm quyền ba thể,

      Thì phải toan tầm kế phục tùng,

            Gìn lòng một mực đến cùng,

Thỉ chung như nhứt thung dung sau nầy.

      Chí giúp đời khá khuây dạ ngọc,

      Lòng thương người lăn lóc phong trần,

            Khổ cay nào nệ tấm thân,

Một lòng ôn thỏa do lòng nghĩa nhơn.

      Hễ biết Ðạo như đờn khoan nhặt,

      Rõ giọng đờn như đắc bổn nguyên,

            Tinh thần thơ thới đào viên,

Hiệp vầy bạn Thánh phỉ nguyền tình sâu.

      Hễ một kiếp dãi dầu cứu thế,

      Thì muôn năm phổ tế vạn sanh,

            Cảnh Tiên nếm được mới đành,

Thân nào nại nhọc được thành thảnh thơi.

      Lý Chơn Ðạo đời đời muôn kiếp,

      Chẳng phải như giấc điệp nam kha,

            Chợt nhìn thế lộ san hà,

Làm cho thơ thái đậm đà tuyết mai.

      Tình thốn thức cầm đài thi tửu,

      Rượu huỳnh tương bổ cứu cho đời,

            Luyện bầu linh dược hôm mơi,

Gắng công nung nấu cứu đời tang thương.

    Lòng chẳng quản chiêu đường quần chúng,

      Lòng xót thương phải dụng linh đơn,

            Hườn hồn cho đám mê hồn,

Cứu an lê thứ sanh tồn thiên cơ.

      Máy linh chuyển cuộc cờ phưởng phất,

      Dùng nâu sòng vật chất đừng làm,

            Biện phân thấu đáo cho cần,

Ấy là phương pháp thuốc thần giải nguy.

      Lấy chơn tâm hằng suy nghĩ cạn,

      Tự nơi ta quyết đoán lý mầu,

            Rọi đèn chơn lý cao sâu,

Vẹt đường mờ mịt dẫn đầu sanh linh.

      Vì cuộc thế thể hình hiện tại,

      Lấy tinh thần chế cải cho thành,

            Dung hòa hai ngã đành rành,

Nương tùy thời thế khá hành Ðạo cao.

THI:

Ðạo cao vẹt lối đám mây mù,

Lý chánh soi tầm khá vững tu,

Ðạo mạch noi gương Nho Thích Ðạo,

Ðời tàn xạo sự phải công phu.

Làm lành đau thảm không nao dạ,

Mấy lúc khổ cay vẹt ngút mù,

Nương bách thuyền nan dìu vạn loại,

Khuyên đời tỉnh giấc khá ôn nhu.

      Vậy các giả thể làm chủ cái tâm của người thì tức nhiên người phải chịu dưới quyền sai khiến, làm cho người mất hết cái chí tiến thủ, rồi biết chừng nào mà người phục tùng nó đặng.

      Ấy là người phải bị nó dẫn dắt vào chỗ tối tăm lầm lạc, thì phải chịu đau thảm, khổ cay, gây điều thống thiết.

      Người phải chịu luân hồi nhiều kiếp đặng trả nợ tiền khiên. Nếu người không có đủ nghị lực, can đởm, cương quyết, dõng mãnh mà phấn đấu với cái cảnh ngộ khắc khe, thì biết chừng nào mà người được tiến hóa về tinh thần đạo đức.

      Tức là người hãm nhốt tinh thần người vào cái khuôn mẫu hẹp hòi, thì người làm sao mà giải thoát cho đặng, đâu biết là chơn giả.

      Vậy người muốn thấy cái ánh sáng Chơn-Lý thì chẳng khó chi. Chính là tự người phải biết cái mưu chước của các giả thể mới thắng phục, tự trị lấy nó được.

      Hễ người biết tự trị lấy người thì người sẽ hiểu rành chơn-lý, giải thoát khỏi lối mê tân. Lần lần linh quang người sẽ phát hiện mà được tiếp xúc giao cảm cùng điển quang của vũ-trụ, hầu thấu đáo các luật ẩn vi, thì chừng ấy ngôi Tiên Phật người nắm trong tay.

      Nếu người cứ ỷ lại nơi mình tự cao, không tự làm chủ cho các thể giả, cứ để cho nó mặc tình chuyển xây hoạt động, thì làm sao ra khỏi vòng tối tăm mờ ám. Rồi lại than trách cho rằng: Trời xanh sao quá trớ trêu cay nghiệt. Ấy là người muốn gây thêm nhân quả, chớ nào phải muốn giải thoát đâu!

THI:

Giải thoát khó gì trị lấy "TA",

Làm cho chịu khổn chốn mê hà,

Khổ tâm lao nhọc vì nơi ấy,

Giám đốc tự người giải thoát qua.

Thể giả có chi không phục đặng,

Tinh thần kiếm lý hiểu sâu xa,

Chí tâm dõng mãnh nào than nhọc,

Trổi bước đởm đương của Phật Ðà.

      Những lời của Bần-Ðạo chỉ giáo trên đây là cốt yếu bày tỏ cái lý cao siêu giải thoát ngoài vòng lao khổ. Vậy chư sĩ khá chuyên cần tu tập. Ta ban ơn chư hiền nam nữ.

      Thành tâm tiếp giá NGÔ-ÐẠI-TIÊN.

----> NEXT

 

Thiên-Lý Bửu-Tòa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh